Việt Nam có bao nhiêu văn hóa vật thể?

Việt Nam tự hào khi có 5 di sản văn hóa vật thể và 2 là di sản tự nhiên cùng với 1 di sản hỗn hợp được UNESCO vinh danh.

Di sản thế giới đã được UNESCO công nhận có đủ cả ba loại hình: di sản thiên nhiên thế giới, di sản văn hóa thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Đáng chý ý, trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất. Các tiêu chí của di sản bao gồm tiêu chí của di sản văn hóa và di sản thiên nhiên.

Được biết, Việt Nam hiện tại có 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận. 5 trong số đó là di sản văn hoá, 2 là di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp.

Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long là những di sản thiên nhiên. Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long và Thành nhà Hồ là những di sản văn hoá. Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản hỗn hợp duy nhất tại Việt Nam và Đông Nam Á, và là một trong số ít 38 di sản hỗn hợp được UNESCO công nhận.

Các Di sản văn hoá nổi bật

Di sản văn hóa bao gồm tài sản văn hóa [như các tòa nhà, cảnh quan, di tích, sách, tác phẩm nghệ thuật, và các hiện vật], văn hóa phi vật thể [như văn hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức] và di sản tự nhiên [bao gồm cảnh quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học]. Tại Việt Nam, Quần thể di tích Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long và Thành nhà Hồ là những di sản văn hoá.

Phố cổ Hội An

Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị với những giá trị nổi bật, Hội An được UNESCO công nhận là một di sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí như: Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế; Là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.

Nếu bạn đã từng đi du lịch tại Hội An, có một đặc điểm dễ nhận ra phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phân bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị.

Là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp.

Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Hội An luôn được xếp vào danh sách những địa điểm hấp dẫn của Việt Nam không chỉ là khách du lịch trong nước mà khách quốc tế đều rất ấn tượng với vẻ đẹp bình yên của nơi này.

Thánh địa Mỹ Sơn

Thánh địa Mỹ Sơn, Thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, kiến trúc nơi đây bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa. Cùng với phố cổ Hội An và Huế, thánh địa Mỹ Sơn đã tạo nên bộ 3 Di sản văn hóa thế giới nổi tiếng giữa dãi đất miền Trung.

Những di sản mới nhất được UNESCO công nhận có gì đặc biệt?

Nếu bạn ao ước được khám phá sự hùng vĩ trên toàn thế giới thì hãy tìm đến danh sách các Di sản Thế giới của UNESCO. Ngoài những di sản cũ thì một danh sách các di sản mới...

Du khách nước ngoài được trải nghiệm làm sản phẩm gốm tại làng Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. [ Ảnh: Minh Đức/TTXVN]

Với Di sản Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm [Gốm Chăm] được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc [UNESCO] ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần Bảo vệ khẩn cấp vào ngày 29/11/2022, đến nay, Việt Nam đã có 15 Di sản Văn hóa Phi vật thể được UNESCO ghi danh.

15 Di sản Văn hóa Phi vật thể này bao gồm: Nhã nhạc-Nhạc Cung đình Triều Nguyễn; Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Hát Ca Trù; Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc; Hát Xoan Phú Thọ; Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca Ví, Dặm ở Nghệ Tĩnh; Nghi lễ và trò chơi Kéo co; Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài Chòi ở Trung Bộ; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ thuật Xèo Thái và mới đây nhất là Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm.

Chi tiết:

1-Nhã nhạc Cung đình Huế [Thừa Thiên-Huế, công nhận năm 2003]

Nhã nhạc là âm nhạc cung đình thời phong kiến, được trình diễn trong các dịp triều hội, tế lễ hoặc các sự kiện trọng đại [lễ đăng quang của nhà vua, tiếp đón sứ thần…].

Được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam, đến thời nhà Nguyễn, Nhã nhạc cung đình Huế phát triển rực rỡ và đạt đến trình độ hoàn chỉnh nhất.

Theo đánh giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia.

Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

2. Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên [công nhận năm 2005]

Không gian Văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng trên địa bàn năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

[UNESCO ghi danh nghệ thuật làm Gốm Chăm: Bảo tồn nghề thủ công độc đáo]

Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Tây Nguyên, như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả cho đến lễ cúng máng nước, lễ mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà Rông mới…

Ngày 25/11/2005, Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên đã chính thức được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

3. Dân ca Quan họ Bắc Ninh [công nhận năm 2009]

Quan họ là những làn điệu dân ca của vùng Đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc [Bắc Ninh và Bắc Giang].

Đây là hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ để biểu lộ tâm tình, ca tụng tình yêu thông qua những câu ca mộc mạc, đằm thắm.

Liền chị quan họ Thị Cầu mời trầu tại canh hát quan họ. [Ảnh: Thái Hùng/TTXVN]

Quan họ được thực hành trong các hoạt động văn hóa, xã hội của cộng đồng; được cộng đồng lưu giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ, trở thành bản sắc của địa phương và lan tỏa trở thành không gian văn hóa đặc thù.

Ngày 30/9/2009, Dân ca Quan họ Bắc Ninh chính thức được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

4. Nghệ thuật Ca trù [công nhận năm 2009]

Ca trù [hay còn gọi là hát ả đào] có vị trí đặc biệt trong kho tàng âm nhạc truyền thống của Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, tư tưởng và triết lý sống của người Việt.

Loại hình nghệ thuật này rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở về trước.

Ngày 1/10/2009, Ca trù đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần Bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.

5. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc [công nhận năm 2010]

Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc [Hà Nội] gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng.

Hội Gióng ở đền Phù Đổng [xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm - nơi Thánh Gióng sinh ra] diễn ra từ ngày 7/9 tháng tư Âm lịch. Hội Gióng ở đền Sóc [xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn nơi Thánh hóa, cưỡi ngựa về trời] diễn ra từ ngày 6/8 tháng Giêng Âm lịch.

Ngày 16/11/2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

6. Nghệ thuật Hát Xoan [công nhận năm 2011 và năm 2017]

Hát Xoan, bắt nguồn từ hình thức hát thờ các Vua Hùng, là một trong những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo của nhân dân Phú Thọ.

Ngày 24/11/2011, Hát Xoan được ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần Bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.

Vào ngày 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp để ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

7. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương [công nhận năm 2012]

Từ hàng nghìn năm qua, người Việt Nam đã sáng tạo, thực hành, vun đắp và lưu truyền Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương để thể hiện sự biết ơn với vị thủy tổ của dân tộc.

Biểu hiện tiêu biểu nhất cho Tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương ở Phú Thọ là lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, được thực hiện vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm tại Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng.

Đoàn rước kiệu tại Lễ giỗ Tổ Hùng Vương năm 2015 tại Khu Công viên Lịch sử-Văn hóa Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh. [Ảnh: Quang Nhựt/TTXVN]

Ngày 6/12/2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

8. Nghệ thuật Đờn ca Tài tử Nam Bộ [công nhận năm 2013]

Đờn ca Tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XIX trên cơ sở của nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian.

Nghệ thuật Đờn ca Tài tử Nam Bộ không ngừng được sáng tạo nhờ tính ngẫu hứng và sự biến hóa theo cảm xúc của người thực hành trên cơ sở của 20 bài gốc [bài Tổ] và 72 bản nhạc cổ.

Ngày 5/12/2013, Đờn ca Tài tử Nam Bộ chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

9. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh [công nhận năm 2014]

Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là hai lối hát dân ca không có nhạc đệm, do cộng đồng hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáng tạo, lưu truyền trong quá trình lao động sản xuất và gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư xứ Nghệ.

Ngày 27/11/2014, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh chính thức được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

10. Nghi lễ và Trò chơi kéo co [công nhận năm 2015]

Nghi lễ và Trò chơi kéo co được thực hành rộng rãi trong văn hóa trồng lúa ở nhiều nước Đông Á với ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu hay những tiên đoán liên quan đến sự thành công hay thất bại của nỗ lực trồng cấy.

Tại Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung ở vùng trung du, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, và một số nơi ở vùng núi phía Bắc.

Ngày 2/12/2015, Nghi lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc và Philippines chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

11. Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt [công nhận năm 2016]

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là sự hỗn dung tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như Đạo giáo, Phật giáo.

Từ thế kỷ XVI, việc thực hành tín ngưỡng này trở thành một sinh hoạt văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân Việt Nam.

Ngày 1/12/2016, di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

12. Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ [công nhận năm 2017]

Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ Việt Nam [ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Đà Nẵng] ra đời từ nhu cầu liên lạc với nhau giữa các chòi canh trên nương rẫy.

Nhấp chuột để xem kích thước chuẩn

Đây vừa là loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính sáng tạo ngẫu hứng vừa là trò chơi dân gian vui nhộn, đầy trí tuệ [kết hợp âm nhạc, thơ ca, diễn xuất, hội họa và văn học].

Ngày 7/12/2017, Nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

13. Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái [công nhận năm 2019]

Hát Then là một loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp gồm: ca, nhạc, múa và diễn trò. Thực hành Then là nghi lễ không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Tày, Nùng, Thái, phản ánh quan niệm của họ về con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ.

Ngày 13/12/2019, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

14. Nghệ thuật Xòe Thái [công nhận năm 2021]

Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Thái ở 4 tỉnh Tây Bắc của Việt Nam là: Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Yên Bái.

Âm nhạc cho múa Xòe cũng thể hiện quan điểm về thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa.

Tháng 12/2021, hồ sơ Nghệ thuật Xòe Thái đã được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.

15. Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm [công nhận năm 2022]

Nghệ thuật làm Gốm độc đáo của đồng bào Chăm [Gốm Chăm] tại làng Bàu Trúc [tỉnh Ninh Thuận] tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ XII.

Đến nay, Bàu Trúc được xem là một trong số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất gốm thô sơ từ ngàn xưa.

Toàn bộ quy trình làm Gốm Chăm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng, bảo lưu thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa của người Chăm ở Việt Nam. Tuy nhiên, dù đã có nhiều nỗ lực bảo vệ, song nghề gốm của người Chăm đang đứng trước nguy cơ mai một.

Ngày 29/11/2022, Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại./.

Ở Việt Nam có bao nhiêu di sản văn hóa vật thể?

Việt Nam hiện tại có 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận. 5 trong số đó là di sản văn hoá, 2 là di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long là những di sản thiên nhiên.

Có bao nhiêu di sản?

Trong 1,052 di sản, có 814 di sản văn hóa, 203 di sản tự nhiên và 35 di sản hỗn hợp. Các quốc gia được Ủy ban Di sản thế giới xếp vào năm khu vực địa lý: châu Phi, các nước Ả Rập, châu Á - Thái Bình Dương, châu Âu và Bắc Mỹ, châu Mỹ Latin và vùng Caribbean.

Những gì sản văn hóa vật thể?

Di sản văn hóa vật thể thế giới.
Quần thể di tích Cố đô Huế ... .
Phố cổ Hội An. ... .
Thánh địa Mỹ Sơn. ... .
Hoàng thành Thăng Long. ... .
Thành Nhà Hồ ... .
Nhã nhạc cung đình Huế ... .
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. ... .
Dân ca Quan họ.

Việt Nam có bao nhiêu di sản văn hóa phi vật thể quốc gia?

Theo thống kê tại trang web của Cục Di sản, đến tháng 6 năm 2021, cả nước có 395 Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia được công nhận trong đó nhiều nhất là loại hình Di sản Lễ hội Truyền thống, tiếp đến là Di sản Nghệ thuật Trình diễn Dân gian và Di sản Tập quán Xã hội và Tín ngưỡng; Ít nhất là loại hình Di sản Hỗn hợp.

Chủ Đề