100iu bằng bao nhiêu mcg

Vitamin D là một nhóm các Secosteroid tan trong chất béo. Chức năng chính của nó là giúp tăng cường khả năng hấp thụ canxi và photphat ở đường ruột. Đối với cơ thể của mỗi người, vitamin D3 [cholecalciferol] và vitamin D2 [ergocalciferol] là những hợp chất quan trọng nhất trong nhóm vitamin D.

Một số vai trò tiêu biểu của vitamin D đối với cơ thể, chẳng hạn như:

  • Đối với xương: Vitamin D3 là một nhân tố quan trọng trong quá trình tạo xương của cơ thể, nó còn giúp duy trì nồng độ canxi trong máu. Hơn thế nữa, vitamin D3 là cầu nối dẫn canxi tới các sụn tăng trưởng. Có thể nói, vai trò xúc tác của vitamin D3 là rất cần thiết để tạo dựng nên một hệ xương chắc khỏe.
  • Đối với hệ tiêu hoá: Đối với hệ tiêu hoá, nhất là ở ruột non và tá tràng, vitamin D giúp chuyển tiếp canxi nhằm tránh xảy ra hiện tượng canxi bị tích tụ và vón cục lại trong ruột. Điều này cũng giúp giảm thiểu và cải thiện được các tình trạng khó tiêu, đầy bụng, đồng thời tăng khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng khác của cơ thể.
  • Đối với hệ hô hấp: Vitamin D giúp cơ thể chống lại các tác nhân có hại tới hệ hô hấp và làm giảm đáng kể các hiện tượng như khó thở, hen suyễn, viêm đường hô hấp.
  • Đối với thận: Vitamin D góp một phần quan trọng trong việc ngăn chặn nguy cơ bị sỏi thận và làm giảm tái hấp thu canxi ở ống thận.
  • Hỗ trợ phòng ngừa và điều trị một số căn bệnh nguy hiểm: nếu cơ thể duy trì được một hàm lượng vitamin D ổn định thì nguy cơ mắc các căn bệnh hiểm nghèo như ung thư đại trực tràng, ung thư vú sẽ được giảm đáng kể. Bên cạnh đó, vitamin D cũng giúp phòng ngừa các bệnh đột quỵ, bệnh về tim mạch và tắc mạch máu ngoại biên. Vitamin D còn là chất giúp tinh thần vui vẻ, phấn chấn hơn; là một liệu pháp hiệu quả để điều trị cho những phụ nữ gặp các vấn đề như trầm cảm, rối loạn cảm xúc, tâm thần phân liệt và những rối loạn tinh thần khác.

Lượng vitamin D sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm chủng tộc, độ tuổi, vĩ độ, mặt trời, quần áo và tình trạng sức khỏe của mỗi người. Khi nói đến nhu cầu vitamin D của cơ thể, tức là ám chỉ tới khẩu phần vitamin D có thể đảm bảo cho cơ thể chúng ta không bị thiếu vitamin D. Khẩu phần vitamin D sẽ được xác định thông qua xét nghiệm hàm lượng 25[OH]D trong máu.

Trong nhiều năm trước đây, các nhà khoa học đã cho rằng nhu cầu vitamin D của cả người lớn và trẻ nhỏ sẽ chỉ từ 200-400 IU/ngày [IU- International unit, đơn vị quốc tế, 1 IU tương ứng với 0,025 μg vitamin D] với ước tính là vitamin D của cơ thể còn được tổng hợp từ da. Đối với những người trưởng thành trên 50 tuổi thì sẽ cần lượng vitamin D nhiều hơn.

Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây ở cả người lớn và trẻ em đều cho thấy, hàm lượng 25[OH]D trong máu không thể giữ được ở mức cân bằng nếu nhu cầu vitamin D chỉ có 400 IU/ngày, nhất là đối với những phụ nữ đang mang thai và đang cho con bú, hoặc những người có tuổi tác cao.

Các cố vấn dinh dưỡng của Chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra mức nhu cầu vitamin D hàng ngày phù hợp cho mỗi đối tượng khác nhau, cụ thể là:

  • Trẻ sơ sinh đến 1 tuổi: cần ít nhất 400 IU/ngày. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, không được vượt quá 1.000 IU/ngày đối với trẻ sơ sinh đến 6 tháng, và 1.500 IU/ngày ở trẻ 6 tháng đến 1 tuổi.
  • Từ 1-18 tuổi: cần 600-1.000 IU/ngày, không được vượt quá 2.500 IU/ngày đối với trẻ 1-3 tuổi; 3.000 IU/ngày ở trẻ 4-8 tuổi và 4.000 IU/ngày đối với trẻ trên 8 tuổi.
  • Từ 19-70 tuổi: cần 1.500-2.000 IU/ngày, ít nhất là 600 IU/ngày, không được vượt quá 4.000 IU/ngày]
  • Trên 70 tuổi: cần 1.500-2.000 IU/ngày, mức ít nhất là 800 IU/ngày, tuy nhiên không được vượt quá 4.000 IU.ngày.

Đối với những trường hợp bao gồm cả trẻ em, người lớn bị béo phì và những người đang sử dụng các loại thuốc glucocorticoid, thuốc chống động kinh, thuốc chống nấm ketoconazole hoặc những loại thuốc điều trị bệnh AIDS thì cần liều vitamin D cao hơn 2-3 lần bình thường.

Những phụ nữ đang mang thai ngoài việc chú ý bổ sung canxi cũng cần phải cung cấp đủ lượng vitamin D cho cơ thể. Bởi vì vitamin D là một chất rất cần thiết cho việc hấp thụ canxi và phosphat, góp phần vào quá trình cấu tạo xương của cơ thể. Đối với phụ nữ đang trong thời gian thai kỳ, vitamin D từ cơ thể mẹ sẽ là nguồn cung cấp vitamin D sang cho thai nhi. Nếu người mẹ không có đủ vitamin D, thai nhi sẽ bị thiếu chất này và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của bé.

Khi thiếu vitamin D, canxi sẽ khó hấp thụ, gây ra các hậu quả nghiêm trọng như trẻ còi xương ngay từ trong bụng mẹ, hoặc khi sinh ra thóp mau liền, mắc các vấn đề liên quan đến dị tật bẩm sinh, co giật do hạ canxi hoặc bị nhuyễn xương.

Khoảng 80% nguồn cung cấp vitamin D quan trọng cho cơ thể là từ sự tổng hợp trong da dưới tác động của ánh nắng mặt trời. Chính vì vậy, những phụ nữ đang mang thai nên dành một khoảng thời gian nhất định để hoạt động ngoài trời và có thể bổ sung vitamin D thông qua các loại thực phẩm có nguồn gốc từ động vật giàu vitamin D như trứng, bơ, sữa, các loại cá béo. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, các trường hợp sử dụng thuốc để bổ sung vitamin D cho mẹ bầu nên tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ.

Trên thực tế, không có nhiều loại thực phẩm tự nhiên có chứa đủ hàm lượng vitamin D. Tuy nhiên, vẫn có một số loại thực phẩm mà bạn có thể sử dụng hàng ngày để bù đắp cho lượng vitamin D bị thiếu hụt trong cơ thể, chẳng hạn như:

  • Các loại cá béo: các loại cá béo như cá thu, cá ngừ, cá hồi, cá chình đều là những loại cá lý tưởng để cung cấp vitamin D cho cơ thể. Đặc biệt, cá hồi không chỉ giàu vitamin D mà nó còn là loại thực phẩm rất tốt cho hệ tim mạch.
  • Nấm: mỗi 1 chén nấm sẽ tương ứng với 400 IU vitamin D. Tuy nhiên, các loại nấm hầu hết chỉ sản xuất ra vitamin D2, trong khi đó cơ thể con người lại sản xuất ra vitamin D3.
  • Trứng: một quả trứng có chứa tới 40 IU vitamin D. Tuy nhiên, theo Hiệp hội tim mạch Mỹ khuyến cáo rằng không nên ăn quá nhiều trứng.
  • Sữa và các chế phẩm từ sữa: một ly sữa có thể cung cấp khoảng 100 IU vitamin D, một hộp sữa chua sẽ có khoảng 80 IU vitamin D.

Một trong những cách rất hiệu quả để bổ sung vitamin D đó là tắm nắng. Bởi nguồn vitamin D chủ yếu là nội sinh cho nên cơ thể chúng ta có thể tự tổng hợp vitamin D dưới tác dụng của tia tử ngoại trong ánh sáng mặt trời. Vì vậy, vào mùa đông ít ánh nắng mặt trời hoặc khi cơ thể không được tắm nắng sẽ bị thiếu hụt vitamin D, từ đó dẫn tới nguy cơ còi xương ở trẻ em. Để đảm bảo cho cơ thể được cung cấp đủ lượng vitamin D, bạn nên tắm nắng khoảng 20-30 phút mỗi ngày vào buổi sáng [trước 9 giờ].

Trong trường hợp không thể tắm nắng thường xuyên, bạn có thể uống vitamin D thay thế. Thuốc bổ sung vitamin D có một ưu điểm nổi bật là cung cấp được lượng vitamin D cần thiết cho cơ thể mà bạn không cần phải tiếp xúc trực tiếp với tia UV có hại cho da. Thêm vào đó, khi sử dụng thuốc cũng giúp bạn dễ dàng kiểm soát lượng vitamin D đưa vào cơ thể để điều chỉnh cho phù hợp.

Quý khách hàng có bất cứ thắc mắc nào về chủ đề bổ sung vitamin D cho cơ thể, vui lòng để lại câu hỏi ở mục HỎI BÁC SĨ VINMEC trên website. Câu hỏi của Quý khách sẽ được gửi đến bác sĩ chuyên khoa giải đáp và chúng tôi sẽ phản hồi lại thông tin trong thời gian sớm nhất.

Mcg bằng bao nhiêu IU?

Đổi đơn vị Vitamin A Ví dụ: 1 mg Betacaroten trên nhãn thuốc PM Procare tương đương 1000 mcg Betacaroten và tương đương với 1000/0.6= 1667 IU Vitamin A.

2000 IU bằng bao nhiêu mg?

50 µg [2000 IU] mỗi ngày cho trẻ em từ 1-11 tuổi.

1 giọt vitamin D3 bằng bao nhiêu IU?

Cùng chứa 400IU D3 trong Ostelin là 1 giọt đã đáp ứng đủ 400 IU D3, trong khi đó Lineabon vẫn là 400 IU D3 nhưng lại chọn cách chia liều 6 giọt. Cách chia liều ít hay nhiều giọt sẽ quyết định một phần lớn đến hiệu quả cũng như độ an toàn cho trẻ. Hãy cùng làm ngay phép so sánh ngay dưới đây nhé.

1 IU vitamin A bằng bao nhiêu mg?

IU [International Units]: là một đơn vị đo lường được dùng để thể hiện hoạt lực của vitamin A. 1 IU của Vitamin A tương đương là 0,3 µg retinol và tương đương với hoạt lực các retinol ester khác như sau: 1 IU của Vitamin A tương đương là 0,344 µg retinol acetat; 0,550 µg retinol palmitat; 0,6 µg beta- caroten.

Chủ Đề