5 bang sản xuất than hàng đầu ở Ấn Độ năm 2022
Hàng hóa Năng lượng Show
Thứ bảy, 16/10/2021, 12:09 (GMT+7) Ấn Độ là quốc gia sản xuất than lớn thứ 2 trên thế giới nhưng đang đối mặt với tình trạng thiếu than trầm trọng. Coal India, tập đoàn sản xuất than lớn nhất thế với, chiếm trên 80% sản lượng của Ấn Độ, không thể đáp ứng đủ nhu cầu thị trường tăng cao. Mới đây, Coal India thông báo sẽ ngừng đấu giá trực tuyến đối với các đối tác không thuộc ngành điện. Các hợp đồng dài hạn sẽ bị cắt giảm nhưng không đến mức dừng hoàn toàn. Tuy nhiên, India Coal không nói rõ mức độ cắt giảm như thế nào. Các doanh nghiệp không thuộc ngành điện bao gồm nhà sản xuất nhôm, xi măng và thép. Các nhóm sản xuất không thuộc ngành điện tiêu thụ khoảng 1/4 sản lượng than của Ấn Độ.
"Đây chỉ là ưu tiên mang tính tạm thời vì lợi ích của Ấn Độ để khắc phục tình trạng tồn kho than thấp tại các nhà máy điện", Coal India cho biết. Trước động thái của Coal India, Hiệp hội Nhôm Ấn Độ (AAI) trong bức thư gửi chủ tịch Coal India cho biết một số hợp đồng than dài hạn đã bị dừng lại và quyết định của Coal India là không hợp lý. AAI cho rằng ngành nhôm đang rơi vào bế tắc trước quyết định của Coal India. Nhập khẩu than hiện tại là bất khả thi vì giá toàn cầu đang rất cao. Ấn Độ đang phải cạnh tranh với Trung Quốc về việc nhập khẩu than vì Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng thiếu điện nghiêm trọng. Hầu hết trong số 135 nhà máy nhiệt điện ở Ấn Độ đang chỉ có lượng dự trữ nhiệu liệu dưới 3 ngày. Mức này thấp hơn so với quy định của nhà chức trách, khuyến khích tích trữ lượng than đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong ít nhất 2 tuần. Các nhà máy sản xuất điện tại Ấn Độ đang vật lộn với nhu cầu sử dụng điện tăng cao từ các ngành công nghiệp khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục sau làn sóng dịch bệnh Covid-19 mới nhất. Nhu cầu sử dụng điện tại các bang sản xuất công nghiệp lớn như Maharashtra, Gujarat và Tamil Nadu tăng từ 13,9% đến 21% trong 3 tháng vừa qua. Ba bang trên chiếm tới gần 1/3 tổng công suất sử dụng điện hàng năm của Ấn Độ. Theo Statista, năm 2020, Trung Quốc là nước tiêu thụ than lớn nhất thế giới với 3,75 tỷ tấn. Ấn Độ xếp thứ 2 với 845,7 triệu tấn. Mỹ đứng thứ 3 với 589,9 triệu tấn. Trang CNBC dẫn tin, do ảnh hưởng lớn từ căng thẳng Nga và Ukraine nên Ấn Độ đang tìm các cách tiếp cận mới đối phó với tình trạng khủng hoảng năng lượng, sau khi được cho là đã mua lượng lớn dầu của Moscow. Ảnh minh họa. Nguồn: Getty. Công ty tình báo hàng hóa Kpler cho biết, nhập khẩu than của Ấn Độ từ Nga tăng kỷ lục trong tháng Ba. Ông Metthew Boyle – nhà phân tích hàng đầu của Kpler cho biết, Ấn Độ đã nhập khẩu khoảng 1,04 triệu tấn than từ Nga trong tháng trước, mức cao nhất kể từ tháng 1/2020. Khoảng 2/3 khối lượng hàng hóa nhập khẩu trong tháng Ba đến Ấn Độ là từ cảng Viễn Đông của Nga. Ông Vivek Dhar, Giám đốc nghiên cứu hàng hóa năng lượng và khai thác than thuộc Ngân hàng Thịnh vượng chung của Australia nhận định cả Ấn Độ và Trung Quốc có thể tăng cường nhập khẩu than từ Nga để đối phó với sự thiếu hụt lớn do tác động từ lệnh cấm của EU. Tuần trước, Ấn Độ cho biết đã có kế hoạch nhập khẩu gấp đôi lượng than cốc của Nga để sản xuất thép. "Lệnh cấm của EU đối với Nga diễn ra vào thời điểm thị trường than quốc tế đang khan hiếm và giá tương đối cao. Nhu cầu than đã tăng mạnh ở châu Á khi các quốc gia giảm thiểu nhập khẩu khí đốt tự nhiên đắt đỏ và đẩy giá than tăng vọt trong năm qua", công ty kinh doanh và nghiên cứu năng lượng Rystad Energy cho biết. Cách tiếp cận mới từ Australia Theo CNBC, Ấn Độ cũng sẽ hưởng lợi từ thỏa thuận thương mại lớn mà nước này đã ký với Australia vào ngày 2/4 bởi mặt hàng than nhập khẩu đủ điều kiện để dỡ bỏ thuế quan. Các nhà phân tích cho biết, thuế quan sẽ được gỡ bỏ 85% đối với các mặt hàng từ Australia xuất khẩu vào Ấn Độ. Tuy nhiên, điều này cũng chưa giúp ích được nhiều vì Australia không có đủ than để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của Ấn Độ. Theo báo cáo về triển vọng năng lượng Ấn Độ trong năm 2021, nhiên liệu than chiếm khoảng 70% sản lượng điện của Ấn Độ. Đất nước này hiện là nhà tiêu thụ và nhập khẩu than lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, Moscow cũng là nước sản xuất than lớn thứ 6 trên thế giới. Nga đã xuất khẩu 54% lượng than đến châu Á và khoảng 31% sang các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế ở châu Âu. Nhập khẩu than giảm 1/2 Trước đây, Ấn Độ đã mua rất ít than từ Nga, ước tính chỉ khoảng 2% trong tổng sản lượng nhập khẩu của Ấn Độ vào năm 2021. "Chúng tôi đang tính nhập khẩu nhiều than cốc từ Nga", Bộ trưởng Liên minh ngành Thép Ấn Độ Ramchandra Prasad Singh phát biểu tại một hội nghị ở New Delhi. Ông Ramchandra Prasad Singh cũng cho biết nước này đã nhập khẩu 4,5 triệu tấn than cốc từ Nga nhưng không nói rõ vào thời điểm nào. "Hiện tại, Ấn Độ tiếp tục thúc đẩy chuỗi cung ứng giữa nước này và Nga liên quan đến nguồn tài nguyên thiên nhiên như dầu và than", ông Samir N. Kapadia, người đứng đầu bộ phận thương mại của công ty tư vấn quan hệ chính phủ Vogel Group cho biết. Ông Kapadia nhấn mạnh sẽ dựa vào thỏa thuận hoán đổi tiền tệ để vượt qua một số thách thức tài chính trên thị trường. Quá trình trao đổi tiền tệ là thỏa thuận giữa ngân hàng trung ương hai nước nhằm cải thiện điều kiện thanh khoản và cung cấp vốn ngoại tệ cho các ngân hàng trong nước vào giai đoạn thị trường căng thẳng. Một số cơ chế như vậy sẽ cho phép Ấn Độ mua năng lượng của Nga và các hàng hóa khác ngay cả khi các lệnh trừng phạt của phương Tây hạn chế cơ chế thanh toán quốc tế. Trong khi đó, một số ngân hàng của Nga đã bị loại khỏi hệ thống SWIFT, một hệ thống toàn cầu kết nối hơn 11.000 ngân hàng thành viên tại khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu. "Tôi không nghĩ rằng có thể giải quyết các vấn đề hậu cần với vận chuyển nhưng hoán đổi tiền tệ giữa rupee-rúp sẽ có ích", ông Kapadia nói trên CNBC. Tất nhiên, bởi động thái này, Mỹ có thể sẽ cân nhắc các biện pháp trừng phạt đối với Ấn Độ nếu nước này không cắt giảm việc mua dầu và than từ Nga. Trong những tuần gần đây, các quan chức hàng đầu của Mỹ đã cảnh báo New Delhi về sản lượng nhập khẩu dầu tăng mạnh. Thậm chí, Washington cũng cảnh báo Ấn Độ có thể phải đối mặt với hậu quả đáng kể nếu vẫn tiếp tục nhập khẩu năng lượng từ Nga. Ngày càng phụ thuộc Theo Giám đốc nghiên cứu hàng hóa năng lượng và khai thác than thuộc Ngân hàng Thịnh vượng chung Commonwealth Bank Dha, khoảng 85% sản lượng than cốc của Ấn Độ đều nhập khẩu từ nước ngoài. "Australia không thể cung cấp đủ số lượng lớn than cốc mà Delhi đang cần để sản xuất thép bởi vì nguồn cung sẽ bị hạn chế", ông Dhar nhấn mạnh. Vào cuối năm ngoái, Ấn Độ đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng do khan hiếm than từ nguồn cung tăng mạnh. Theo Dhar, cách duy nhất là Australia tập trung xuất khẩu than cốc vào Ấn Độ, nâng thị phần than tại nước này lên. Tuy nhiên điều này không mấy khả quan. "Bởi các nước Hàn Quốc, Nhật và châu Âu cũng đang dần rời xa hàng hóa xuất khẩu từ Nga nên sẽ rất khó để Australia có thể tập trung vào một thị trường khi nhu cầu từ các bên khác sẽ ngày càng lớn hơn trong tương lai", ông Dhar nói./. Coal in India has been mined since 1774, and India is the second largest producer and consumer of coal after China, mining 777.31 million metric tons (856.84 million short tons) in FY 2022. Around 30% of coal is imported. Due to high demand and poor average quality, India imports coking coal to meet the requirements of its steel plants. Dhanbad, the largest coal producing city, has been called the coal capital of India. State-owned Coal India had a monopoly on coal mining between its nationalisation in 1973 and 2018.[1] Most of the coal is burned to generate electricity and most electricity is generated by coal, but coal-fired power plants have been criticised for breaking environmental laws.[2] The health and environmental impact of the coal industry is serious, and phasing out coal would have short-term health and environmental benefits greatly exceeding the costs.[3] Electricity from new solar farms in India is cheaper than that generated by the country's existing coal plants.[4] History[edit][edit]The Indira Gandhi administration nationalized coal mining in phases – coking coal mines in 1971–72 and non-coking coal mines in 1973. With the enactment of the Coal Mines (Nationalization) Act, 1973, all coal mines in India were nationalized in May 1973. This policy was reversed by the Narendra Modi administration four decades later. In March 2015, the government permitted private companies to mine coal for use in their own cement, steel, power or aluminium plants. The Coking Coal Mines (Nationalization) Act, 1972 and the Coal Mines (Nationalization) Act, 1973 were repealed in January 2018. In the final step toward denationalization, in February 2018, the government permitted private firms to enter the commercial coal mining industry. Under the new policy, mines were auctioned to the firm offering the highest per tonne price. The move broke the monopoly over commercial mining that state-owned Coal India had enjoyed since nationalisation in 1973. Pre-independence[edit][edit]Commercial exploitation of coal in India began in 1774 with John Sumner and Suetonius Grant Heatly of the East India Company in the Raniganj Coalfield along the Western bank of Damodar River. The growth of Indian coal mining remained slow for nearly a century due to low demand. The introduction of steam locomotives increased coal production to an annual average of 1 million metric tons (1.1 million short tons) in 1853. By 1900, India produced 6.12 million metric tons (6.75 million short tons) of coal per year; by 1920, it produced 18 million metric tons (20 million short tons). During the First World War, coal production received a boost due to increased demand, but declined again in the early 1930s. Production reached a level of 29 million metric tons (32 million short tons) by 1942 and 30 million metric tons (33 million short tons) by 1946.[5] In the regions of British India known as Bengal, Bihar and Odisha, the many Indians pioneered Indian involvement in coal mining from 1894. They broke the previous monopolies held by British and other Europeans, establishing many collieries at locations such as Khas Jharia, Jamadoba, Balihari, Tisra, Katrasgarh, Kailudih, Kusunda, Govindpur, Sijua, Sijhua, Loyabad, Dhansar, Bhuli, Bermo, Mugma, Chasnala-Bokaro, Bugatdih, Putki, Chirkunda, Bhowrah, Sinidih, Kendwadih, and Dumka.[6][7] Seth Khora Ramji Chawda of Kutch was the first Indian to break the British monopoly in the Jharia Coalfields.[6][8] Natwarlal Devram Jethwa says that
Other Indian communities followed the example of the him in the Dhanbad-Jharia-Bokaro fields after the 1930s. These included the Punjabis, Kutchis, Marwaris, Gujaratis, Bengalis and Hindustanis.[6][10][11][12][13][14] Post-independence[edit][edit]Following independence, the Government of India introduced several 5-year development plans. Annual production rose to 33 million metric tons (36 million short tons) at the beginning of the First Five Year Plan. The National Coal Development Corporation (NCDC), a Government of India Undertaking, was established in 1956 with the collieries owned by the railways. The NCDC aimed to increase coal production efficiently by systematic and scientific development of the coal industry. The Singareni Collieries Company Ltd. (SCCL) which was already in operation since 1945 and which became a Government company under the control of Government of Andhra Pradesh in 1956. The coal industry in India was thus controlled by state-owned companies in the 1950s. Today, SCCL is a joint undertaking of Government of Telangana and Government of India sharing its equity in 51:49 ratio. Quốc hữu hóa các mỏ than [chỉnh sửa][edit]Ngay từ nguồn gốc của nó, việc khai thác than thương mại trong thời hiện đại ở Ấn Độ đã được quyết định bởi nhu cầu của tiêu dùng trong nước. Ấn Độ có nhiều trữ lượng than trong nước. Hầu hết trong số này là ở các bang của Jharkhand, Odisha, Tây Bengal, Bihar, Chhattisgarh, Telangana và Madhya Pradesh. [15] Do nhu cầu ngày càng tăng của ngành thép, một lực đẩy phải được đưa ra khi khai thác hệ thống các khu bảo tồn than cốc ở Jharia Coalfield. Đầu tư vốn đầy đủ để đáp ứng nhu cầu năng lượng đang phát triển của đất nước không được đưa ra từ các chủ sở hữu mỏ than tư nhân. Các thực hành khai thác không khoa học được thông qua bởi một số người trong số họ và điều kiện lao động kém trong một số mỏ than tư nhân trở thành vấn đề quan tâm đối với chính phủ. Vì những lý do này, chính phủ trung ương đã đưa ra quyết định quốc hữu hóa các mỏ than tư nhân. Việc quốc hữu hóa được thực hiện theo hai giai đoạn, giai đoạn đầu tiên với các mỏ than Coking vào năm 1971, 72 và sau đó với các mỏ than không coking vào năm 1973. Vào tháng 10 năm 1971, Đạo luật khai thác than COKING (quy định khẩn cấp), năm 1971 đã cung cấp cho tiếp quản vì lợi ích công cộng của việc quản lý các mỏ than COKing và các nhà máy than Coke đang chờ quốc hữu hóa. Tiếp theo là Đạo luật khai thác than COKING (Quốc hữu hóa), năm 1972, theo đó các mỏ than Coking và các nhà máy lò than Coke khác với những người có Tata Iron & Steel Limited Limited và Indian Iron & Steel Limited, đã được quốc hữu hóa vào ngày 1 tháng 5 năm 1972 và mang theo Than Coking Limited (BCCL) Bharat, một công việc của chính phủ trung ương mới. Một ban hành khác, cụ thể là các mỏ than (tiếp quản quản lý), năm 1973, đã mở rộng quyền của Chính phủ Ấn Độ để tiếp quản việc quản lý các mỏ than COKING và không loại bỏ ở bảy tiểu bang bao gồm các mỏ than COKing tiếp quản tại Năm 1971. Tiếp theo là quốc hữu hóa tất cả các mỏ này vào ngày 1 tháng 5 năm 1973 với việc ban hành Đạo luật khai thác than (quốc hữu hóa), năm 1973, xác định tính đủ điều kiện của khai thác than ở Ấn Độ. [16] Tất cả các mỏ than không có vỏ đã được quốc hữu hóa vào năm 1973 và được đặt dưới cơ quan khai thác than của Ấn Độ. Năm 1975, Đông Coalfields Limited, một công ty con của Than India Limited, đã được thành lập. Nó đã chiếm tất cả các colieries tư nhân trước đó ở Raniganj Coalfield. Raniganj Coalfield có diện tích 443,50 km2 (171,24 & NBSP; Sq & NBSP; MI) và có tổng lượng dự trữ than là 8,552,85 & nbsp; triệu tấn (9,427,90 & nbsp; triệu tấn ngắn). Các trường đại học phía đông đặt dự trữ ở mức 29,72 & nbsp; hàng tỷ tấn (32,76 & nbsp; tỷ tấn ngắn) khiến nó trở thành Coalfield lớn thứ hai trong cả nước (về dự trữ). Các quốc gia Đông Bắc Ấn Độ được hưởng các đặc quyền đặc biệt theo Hiến pháp Ấn Độ. Lịch trình thứ sáu của Hiến pháp và Điều 371 của Hiến pháp cho phép các chính phủ tiểu bang xây dựng chính sách của riêng mình để công nhận các luật bộ lạc thông thường. Ví dụ, Nagaland có chính sách than riêng cho phép người bản địa khai thác than từ các vùng đất tương ứng của họ. Tương tự, khai thác than ở Meghalaya đã lan tràn cho đến khi áp dụng lệnh cấm khai thác than của Tòa án xanh quốc gia. Than Nagaland [17] và than Meghalaya [18] có những người mua lớn ở Bắc Ấn Độ, Trung Ấn Độ và Đông Ấn Độ. Từ chối các mỏ than [chỉnh sửa][edit]Nghị viện đã ban hành Đạo luật Mỏ than (Điều khoản đặc biệt), 2015 vào tháng 3 năm 2015 có các điều khoản cho phép chính phủ phân bổ các mỏ than thông qua các cuộc đấu giá. Luật cũng cho phép người chơi tư nhân khai thác than để sử dụng trong các nhà máy xi măng, thép, điện hoặc nhôm của riêng họ. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2018, Ủy ban Nội các về các vấn đề kinh tế (CCEA) đã cho phép các công ty tư nhân tham gia vào ngành khai thác than thương mại ở Ấn Độ. Theo chính sách mới, các mỏ sẽ được bán đấu giá cho công ty cung cấp giá cao nhất trên mỗi tấn. Động thái này đã phá vỡ sự độc quyền đối với việc khai thác thương mại mà Than Ấn Độ thuộc sở hữu nhà nước đã được hưởng từ khi quốc hữu hóa vào năm 1973. [19] Đạo luật khai thác than COKING (Quốc hữu hóa), năm 1972 và Đạo luật về Than (Quốc hữu hóa), năm 1973 đã bị bãi bỏ bằng Đạo luật bãi bỏ và sửa đổi (thứ hai), 2017 vào ngày 8 tháng 1 năm 2018. [20] Reserves[edit][edit]Ấn Độ có trữ lượng than lớn thứ tư trên thế giới. Kể từ 1 & nbsp; April & nbsp; 2021, Ấn Độ có 352,13 & nbsp; tỷ tấn (388,16 & nbsp; tỷ tấn ngắn) của tài nguyên. Tổng số dự trữ than tăng 2,36% so với năm trước, với việc phát hiện ra ước tính khoảng 8,11 & nbsp; hàng tỷ tấn (8,94 & nbsp; tỷ tấn ngắn). Khoảng một nửa số dự trữ than của Ấn Độ được chứng minh, 42% được chỉ định/có thể xảy ra và 8% được suy luận. Tiền gửi than chủ yếu được tìm thấy ở phía đông và phía nam trung tâm Ấn Độ. Jharkhand, Odisha và Chhattisgarh chiếm gần 70% tổng số tiền dự trữ than được biết đến ở Ấn Độ. [21] Tổng số dự trữ than than non kể từ 1 & nbsp; April & nbsp; 2021 là 46,02 & nbsp; tỷ tấn (50,73 & nbsp; tỷ tấn ngắn), vẫn không thay đổi so với năm trước. Các dự trữ than non lớn nhất có mặt ở Tamil Nadu. Chỉ có khoảng 16% dự trữ than non của Ấn Độ được chứng minh, 56% được chỉ định/có thể xảy ra và 28% được suy ra. [21] Năng lượng có nguồn gốc từ than ở Ấn Độ là khoảng gấp đôi năng lượng có nguồn gốc từ dầu, trong khi trên toàn thế giới, năng lượng có nguồn gốc từ than thấp hơn khoảng 30% so với năng lượng có nguồn gốc từ dầu. [Cần trích dẫn]citation needed] Phân phối dự trữ than của các quốc gia [chỉnh sửa][edit]Bảng dưới đây cho thấy dự trữ than ước tính ở Ấn Độ theo tiểu bang kể từ ngày 1 tháng 4 năm 2021. [21] [22]
Madhya Pradesh[edit]Telangana
Production[edit][edit]Madhya Pradesh Telangana Maharashtra Washing[edit][edit]Bihar Andhra Pradesh Consumption[edit][edit]Uttar Pradesh Meghalaya Đệ tam Assam Sản xuất điện [chỉnh sửa][edit]Than tạo ra hơn 73% điện được sản xuất vào năm 2020, 21, trong khi than non chiếm 3,6% sản xuất điện. [21] Ngành điện của Ấn Độ đã tiêu thụ hơn 70% than được sản xuất tại nước này vào năm 2013. [27] Vào năm 2020 nghĩ rằng máy theo dõi carbon bể ước tính rằng 17% cây đốt than đã đắt hơn so với năng lượng tái tạo mới và 85% sẽ là vào năm 2025. [28] Có ý kiến cho rằng không có nhà máy than mới nào là cần thiết, nhưng các nhà máy hiện tại có thể được trang bị thêm để hoạt động linh hoạt hơn cùng với gió và mặt trời. [29] Một phần lớn khu bảo tồn than Ấn Độ tương tự như than gondwana. Nó có giá trị nhiệt lượng thấp và hàm lượng tro cao. Hàm lượng carbon thấp trong than của Ấn Độ và nồng độ nguyên tố vi lượng độc hại là không đáng kể. Giá trị nhiên liệu tự nhiên của than Ấn Độ là kém. Trung bình, các nhà máy điện Ấn Độ sử dụng nguồn cung cấp than của Ấn Độ tiêu thụ khoảng 0,7 & nbsp; kg than để tạo ra một kWh, trong khi các nhà máy nhiệt điện của Hoa Kỳ tiêu thụ khoảng 0,45 & nbsp; kg than trên mỗi kWh. Điều này là do sự khác biệt về chất lượng của than, được đo bằng giá trị tổng lượng tổng (GCV). Trung bình, than Ấn Độ có GCV khoảng 4500 kcal/kg, trong khi chất lượng ở hầu hết các quốc gia khác tốt hơn nhiều; Ví dụ, ở Úc, GCV là 6500 kcal/kg khoảng. [30] [31] Hiệu ứng sức khỏe [Chỉnh sửa][edit]
Tác động về sức khỏe và môi trường của ngành than rất nghiêm trọng ở Ấn Độ. [32] Một nghiên cứu cho thấy 90% hộ gia đình được khảo sát tại một ngôi làng gần một mỏ than đã báo cáo các vấn đề sức khỏe trong năm ngoái, so với 52% hộ gia đình từ các làng ít nhất 40 & nbsp; km (25 & nbsp; mi) cách xa mỏ. Ngoài ra, các ngôi làng gần mỏ nhất với tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tự báo cáo lớn nhất. [33] Ảnh hưởng sức khỏe của tro than cũng là một vấn đề. [34] Ô nhiễm không khí từ các nhà máy nhiệt điện than có liên quan đến hen suyễn, ung thư, bệnh tim và phổi, các vấn đề thần kinh, mưa axit, nóng lên toàn cầu và các tác động sức khỏe môi trường và công cộng nghiêm trọng khác. Hiệu ứng môi trường [chỉnh sửa][edit]Jharia Coalfield với khói và đốt than hồng đến từ lửa than ngầm. Vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi gần một thế kỷ và di dời hoặc gây nguy hiểm cho sức khỏe của 100 ngàn người. [35] [36] [37]
Năm 2020 Tổng thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres nói rằng Ấn Độ nên ngừng xây dựng các trạm năng lượng đốt than trước cuối năm nay và kết thúc trợ cấp nhiên liệu hóa thạch. [38] Theo Bloombergnef không bao gồm trợ cấp, chi phí điện được cân bằng từ năng lượng mặt trời quy mô lớn mới nằm dưới các trạm năng lượng đốt than hiện có kể từ năm 2021. [4] Mafia than [chỉnh sửa][edit]Các mỏ than của Bihar thuộc sở hữu nhà nước (nay là Jharkhand sau khi Bộ phận của Bang Bihar) là một trong những khu vực đầu tiên ở Ấn Độ thấy sự xuất hiện của một mafia tinh vi, bắt đầu với thị trấn khai thác Dhanbad. [39] Người ta bị cáo buộc rằng lãnh đạo công đoàn của ngành công nghiệp than là tiếng vang thượng lưu của sự sắp xếp này và sử dụng các mối quan hệ đẳng cấp để duy trì quyền lực của mình. [40] Pilferage và bán than trên thị trường chợ đen, chi phí cung cấp tăng cao hoặc hư cấu, hợp đồng công nhân giả mạo và việc chiếm đoạt và cho thuê đất của chính phủ đã bị cáo buộc trở thành thói quen. [41] Một nền kinh tế song song đã phát triển với một phần đáng kể dân số địa phương được sử dụng bởi Mafia trong việc vận chuyển than bị đánh cắp trong khoảng cách xa trên những con đường không trải nhựa đến các nhà kho mafia bất hợp pháp và các điểm bán hàng. [42] Mafia than đã có tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp Ấn Độ, với nguồn cung cấp than và chất lượng khác nhau một cách thất thường. Than chất lượng cao hơn đôi khi được chuyển hướng có chọn lọc, và than bị thiếu được thay thế bằng đá và tảng đá trong các toa xe chở hàng đường sắt. Một xác chết của con người đã được phát hiện trong một toa xe than kín. [43] Chỉ cần chuyển từ than [chỉnh sửa][edit]
Lập kế hoạch chuyển đổi công bằng là rất quan trọng vì nhiều người nghèo dựa vào than. [44] Xem thêm [sửa][edit]
References[edit][edit]
Đọc thêm [Chỉnh sửa][edit]
Liên kết bên ngoài [Chỉnh sửa][edit]
Nhà sản xuất than lớn nhất ở Ấn Độ?Jharkhand có trữ lượng than cao nhất ở Ấn Độ. has the highest coal reserves in India.
Năm quốc gia sản xuất than hàng đầu là gì?Những quốc gia nào sản xuất nhiều than nhất ?.. Wyoming Wyoming 21.64040,8%. Tây Virginia, 67.212,6%. Pennsylvania Pennsylvania 36.3 6,8%. Illinois, 31.6, 5,9%. Bắc Dakota, 26,4 4,9%. |