Bình luận khoa học 2023 đinh văn quế năm 2024

Nền kinh tế thị trường ở nước ta đã có những bước phát triển quan trong, từng bước hội nhập sâu rông bào nền kinh tế thế giới và mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đông thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm

Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn là bộ sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dung trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của Bộ luật tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường chưa được kịp thời bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng…thuế, bảo hiểm, chứng khoán, tội phạm trong lĩnh vực mội trường

Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Hình sự để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Vì vậy, các tội phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới quan trọng so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Việc hiểu và áp dụng đúng các quy định đối với các tội phạm này trong việc đấu tranh và phòng ngừa là rất quan trọng

Tiếp theo các cuốn ” Bình luận Hình Sự năm 2015 … , tác giả ĐINH VĂN QUẾ – Thạc sỹ Luật học, nguyên Thành viên Hội Đồng Thẩm phán, Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao phối hợi với nhà xuất bản Thông tin và truyền thông tiếp tục cho ra mắc bạn đọc cuốn ” Bình Luận Khoa Học Bộ Luật Hình Sự năm 2015 ( Phần Thứ Hai – Các Tội Phạm ) Chương XVIII, Mục 1: Các Tội Xâm Phạm Trong Lĩnh Vực Sản Xuất, Kinh Doanh, Thương Mại”

Dựa vào các quy định tại Mục 1, Chương XVIII Bộ luật Hình sự năm 2015, so sánh với bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về các tội phạm này, đối chiếu với thực tiễn, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các dấu hiệu cấu thành các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, đồng thời nêu ra một số vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng cần tiếp tục hoàn thiện.

Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997. Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ thể hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. So với Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều quy định mới về tội phạm và hình phạt. Do đó việc hiểu và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một vấn đề rất quan trọng. Ngày 17 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 04/2000/CT-TTg về việc tổ chức thi hành Bộ luật hình sự đã nhấn mạnh: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Bộ luật hình sự phải được tiến hành sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ thuộc lực lượng vũ trang và trong nhân dân, làm cho mọi người năm được nội dung cơ bản của Bộ luật, nhất là những nội dung mới được sửa đổi bổ sung để nghiêm chỉnh chấp hành". Với ý nghĩa trên, tiếp theo cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (phần chung)” và các cuốn "bình luận Bộ luật hình sự (phần riêng) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người và các tội xâm phạm sở hữu” Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tiếp cuốn "BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ (PHẦN RIÊNG) CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH” của tác giả Đinh Văn Quế - Thạc sỹ Luật học, Phó chánh toà Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao, người đã nhiều năm nghiên cứu, giảng dạy và cho công bố nhiều tác phẩm bình luận khoa học về Bộ luật hình sự và cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình.

Dựa vào các quy định của chương XIII và chương XV Bộ luật hình sự năm 1999, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, đối chiếu với thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, tác giả đã giải thích một cách khoa học về các các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân và các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, đồng thời tác giả cũng mạnh dạn nêu ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự ở nước ta Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

MỞ ĐẦU

A- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ

CỦA CÔNG DÂN QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999

I - NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ

CỦA CÔNG DÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999

So với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, thì Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định thêm 1 Điều tương ứng với một tội danh mới (không kể điều luật quy định về hình phạt bổ sung), nhưng thực chất là tách Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 thành hai điều luật (Điều 126 và Điều 127) quy định hai tội danh riêng biệt mà Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai hành vi phạm tội trong cùng một điều luật. Tuy nhiên, đối với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt trong các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn, và chi tiết hơn. Tên tội danh, các khái niệm, các thuật ngữ cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xét xử, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta và quy định của các ngành luật khác. Các hình phạt bổ sung trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong một điều luật (Điều 128), nay quy định ngay trong từng điều luật, nếu xét thấy tội phạm đó cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Việc quy định này, không chỉ phản ảnh trình độ lập pháp cao hơn, mà còn có tác dụng to lớn trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tránh được việc bỏ quên hoặc áp dụng không chính xác hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Quy định thêm một số hình phạt bổ sung để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa loại tội phạm này như: hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định mà Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội “buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật”, mà Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định hình phạt bổ sung “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm” đối với tội này. Lý do bỏ hình phạt bổ sung đối với hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật không được ban dự thảo Bộ luật hình sự năm 1999 giải thích, nhưng theo chúng tôi việc không quy định hình phạt “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định” đối với người phạm tội là không thoả đáng, nhất là đối với người phạm tội buộc cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật.

  • Đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), được cấu tạo lại thành bốn khoản, trong đó khoản 4 quy định hình phạt bổ sung, riêng khoản 2 của điều luật quy định thêm 3 tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; đối với người thi hành công vụ; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người”, ngoài tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” đã quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này.
  • Đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều 124), được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 quy định hình phạt bổ sung, riêng khoản 2 của điều luật quy định thêm 2 tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; gây hậu quả nghiêm

trọng”, ngoài tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” đã quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này. - Đối với tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (Điều 125) được cấu tạo thành ba khoản, trong đó khoản 3 quy định hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản được cấu tạo lại, bổ sung một số tình tiết định tội (cụ thể thêm một số hành vi ) như: “chiếm đoạt telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính” mà Điều 121 Bộ luật hình sự 1985 về tội phạm này chưa quy định; đặc biệt, cấu thành cơ bản của tội phạm này, nhà làm luật quy định các dấu hiệu làm ranh giới giữa hành vi tội phạm với hành vi chưa phải là tội phạm. Ranh giới đó là: nếu hành vi xâm phạm bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín chưa bị xử lý kỷ luật hoặc chưa bị xử phạt hành chính thì chưa bị coi là tội phạm. Khung hình phạt của khoản 1 Điều 125 cũng được bổ sung thêm loại hình phạt tiền là hình phạt chính. Riêng khoản 2 của điều luật được cấu tạo hoàn toàn mới mà Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 không có, với 5 tình tiết định khung, đó là: “phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội nhiều lần; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm”. Ngoài hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhật định, khoản 3 của điều luật quy định thêm hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. So với Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì Điều 125 nặng hơn, vì khoản 2 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù (Điều 121 chỉ có một năm tù). - Đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân (Điều 126) là hành vi quy định tại khoản 1 cuả Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản, ngoài những hành vi đã được quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985, nhà làm luật quy định thêm một số tình tiết là dấu hiệu định tội như: “Hành vi cưỡng ép; xâm phạm quyền ứng cử”; khung hình phạt của khoản 1 Điều 126 nhẹ hơn khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985; riêng khoản 2 của điều luật là cấu thành mới (cấu thành tăng nặng) quy định ba tình tiết định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; gây hậu quả nghiêm trọng”. - Đối với tội làm sai lệch kết quả bầu cử (Điều 127) là hành vi quy định tại khoản 2 cuả Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản, nhà làm luật không quy định thêm tình tiết nào mới là dấu hiệu định tội; khung hình phạt của khoản 1 Điều 126 nhẹ hơn khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985; riêng khoản 2 của điều luật là cấu thành mới (cấu thành tăng nặng) quy định hai tình tiết định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; gây hậu quả nghiêm trọng”. - Đối với tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật (Điều 128), chỉ có một vài thay đổi, đó là: thêm đối tượng bị xâm phạm, ngoài người lao động còn có cả cán bộ, công chức, đặc biệt nhà làm luật quy định dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nếu hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội

ứng cử; quyền lao động; quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bình đẳng của phụ nữ; quyền tác giả; quyền khiếu nại tố cáo. Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội tới mức bị coi là tội phạm khi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nếu trước đây, hành vi chiếm đoạt thư, điện báo chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính đã là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì nay Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi trên đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm mới là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được coi là hành vi phạm tội. Ngược lại, có hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví dụ: Hành vi chiếm đoạt telex, fax, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm. 2. Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự Việc nhà làm luật quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm là nhằm gạt bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự. Chỉ có Bộ luật hình sự mới được quy định tội phạm, ngoài Bộ luật hình sự ra không có văn bản pháp luật nào khác được quy định tội pham. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, đã có một thời gian dài các Toà án vận dụng đường lối chính sách hiện hành để xét xử một số hành vi mà pháp luật hình sự không quy định là tội phạm. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, việc nhà làm luật quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất thiết phải được quy định trong Bộ luật hình sự sẽ dẫn đến tình trạng hình sự hoá một cách tuyệt đối. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới chỉ quy định "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự" hoặc "tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự". Mặt khắc, tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng chỉ quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự", trong khi đó khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 lại quy định: " tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự..." Vậy là giữa khái niệm tội phạm và cơ sở trách nhiệm hình đã không được quy định thống nhất ngay trong Bộ luật hình sự, dẫn đến việc hiểu và giải thích rất khác nhau giữa khái niệm tội phạm với cơ sở trách nhiệm hình sự. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, cũng có ý kiến đề nghị Bộ luật hình sự nên quy định: " Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự." ý kiến này có nhân tố hợp lý, tránh sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự một cách triền miên, nhưng lại không đảm bảo tính thống nhất, tập trung, dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa văn bản này với văn bản khác. Trong điều kiện xây dựng một Nhà nước pháp quyền thì con người với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, được biết mình được làm gì, không được làm gì, nhất là các quan hệ pháp luật hình sự lại liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người kể cả quyền sống. Vì vậy, luật hình sự cần được pháp điển hoá thành Bộ luật hoàn chỉnh, nơi duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt, đảm bảo tốt nhất cho việc thực hiện chính sách hình sự, đảm bảo quyền công dân, đảm bảo tăng cường

pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sau hơn mười năm thi hành và qua nhiều lần thảo luận, một lần nữa Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm, đồng thời sửa đổi Điều 2 của Bộ luật hình sự cho phù hợp với khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 với nội dung " Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". 3. Chủ thể của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là người có năng lực trách nhiệm hình sự Chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân nói riêng là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân cũng đều là chủ thể của tội phạm này, mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội phạm. Bộ luật hình sự không quy định năng lực trách nhiệm hình sự là gì, mà chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13) và tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12). Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu chủ thể của tội phạm phải là người ở một độ tuổi nhất định và là người nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình. a. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Luật hình sự nước nào cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải tất cả các nước đều quy định giống nhau, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau: ở Anh từ 8 tuổi, ở Mỹ từ 7 tuổi, ở Thụy Điển từ 15 tuổi, ở Nga từ 14 tuổi, ở Pháp từ 13 tuổi, ở các nước đạo Hồi như Ai -Cập, Li-băng, I -Rắc từ 7 tuổi. v... 1 Ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước khác trên thế giới và trong khu vực, Bộ luật hình sự đã quy định: Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm ( Điều 12 Bộ luật hình sự ). Vấn đề đặt ra về lý luận cần phải giải quyết, đó là: vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra? Khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến sự phát triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự ( loại trừ trách nhiệm hình sự ). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Theo

1 Xem Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt nam- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội - 1994. Tr 197

Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) phải xác định rõ tuổi của họ. Cách tính đủ tuổi là tính theo tuổi tròn. Ví dụ: Sinh ngày 1-1-1980 thì ngày 1-1-1994 mới đủ 14 tuổi và ngày 1-1-1996 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. Ví dụ: Chỉ biết tháng sinh của người phạm tội là tháng 4-1981 mà không biết ngày nào thì lấy ngày 30-4-1981 là ngày sinh của họ. Trường hợp cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng năm sinh là ngày sinh của người phạm tội. Ví dụ: Chỉ biết năm sinh của người phạm tội là năm 1983 thì ngày sinh của người phạm tội là ngày 31-12- 1983. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phải tiến hành hết các biện pháp xác minh mà không thể chứng minh được ngày tháng năm sinh thì mới lấy ngày cuối cùng trong tháng hoặc tháng cuối cùng trong năm làm ngày sinh của người phạm tội. Trong hồ sơ vụ án nhất thiết phải có bản sao giấy khai sinh (nếu là trường hợp có giấy khai sinh) hoặc các biên bản xác minh có xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (nếu là trường hợp không có giấy khai sinh). Nếu có nhiều tài liệu phản ánh tuổi của người phạm tội khác nhau thì việc xác định tuổi của người phạm tội theo hướng có lợi cho họ. b. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự, thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Như vậy, tiêu chuẩn ( dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh ( tiêu chuẩn y học) và tâm lý( mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh. Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: Bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời. Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được Hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. ở nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự giữa các Hội đồng giám định tâm thần, làm cho việc truy cứu trách nhiệm

hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có trường hợp kết luận của Hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tầm thần của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi tội phạm họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: Chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự. Một người mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện hành vi phạm tội, họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đối với người lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi bị kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vị bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Một công an viên của xã nhận được lệnh đến cởi trói cho một người bị bắt nhầm, nhưng vì người này bị lên cơn sốt ác tính nên không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao và cũng không báo được cho người phụ trách biết làm cho người bị trói không được cởi trói và bị giam trong nhà kho dẫn đến tổn hại nặng đến sức khoẻ. c. Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự thì Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. Bởi vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “say” nên họ có lỗi. Say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm do họ gây ra còn là biểu thị thái độ

đích có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng trong định tội cũng như trong việc quyết định hình phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt chủ quan của tội phạm. Khi người ta nói một người có lỗi trong thực hiện tội phạm tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm mà không tách rời nó với động cơ, mục đích tội phạm. 5 a. Cố ý phạm tội Theo Điều 9 Bộ luật hình sự thì cố ý phạm tội là tội phạm trong trường hợp sau đây: - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra; Lần đầu tiên Bộ luật hình sự quy định rõ hai hình thức lỗi cố ý phạm tội, tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung quy định như trên chúng ta cũng hiểu được đó là hai hình thức lỗi : cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định hai hình thức lỗi cố ý nhưng không quy định cụ thể và rõ ràng như Bộ luật hình sự năm 1999 Khoa học luật hình sự, khi nghiên cứu lỗi cố ý, còn chia ra nhiều hình thức khác nhau, các hình thức này không có ý nghĩa xác định trách nhiệm hình sự mà chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm. Các hình thức đó là: Cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác định. - Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực hiện tội phạm. - Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định tội phạm đã thực hiện ngay ý định đó. - Cố ý xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả. - Cố ý không xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào. b. Vô ý phạm tội Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự thì vô ý phạm tội là tội phạm trường hợp sau đây: - Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. - Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có trường hợp nào được thực hiện do vô ý nên chúng ta không nghiên cứu kỹ về hình thức lỗi vô ý. Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu không có lỗi thì không bị coi là hành vi tội phạm. Bộ luật hình sự quy định một số trường hợp không phải là tội phạm do

  1. Sách đã dẫn. Tr 193.

người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi như: Sự kiện bất ngờ (Điều 11) phòng vệ chính đáng (Điều 15), tình thế cấp thiết (Điều 16). Ngoài ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có một số trường hợp tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như: Tình trạng không thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất. 6 Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì không có lỗi ít xảy ra. 5. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan hệ xã hội đó được Bộ luật hình sự bảo vệ. Đây cũng là một đặc điểm mà thiếu nó thì không phải là tội phạm. Các quan hệ xã hội thì có nhiều, do nhiều ngành luật điều chỉnh, nhưng Bộ luật hình sự chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, khách thể của tội phạm chủ yếu là quyền tự do, dân chủ của công dân. Ngoài ra còn có những quan hệ khác như tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là khách thể đặc trưng cuả các tội này. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tuyệt đại đa số cho rằng, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, có người cho rằng, quan hệ xã hội chỉ là khách thể chung, khách thể loại, còn khách thể trực tiếp không phải là quan hệ xã hội. Sự lầm lẫn này, thể hiện ở một số sách báo pháp lý khi nói đến khách thể trực tiếp thường nhầm với đối tượng tác động. Khách thể là một yếu tố rất quan trọng của tội phạm; các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội không phải là khách thể của tội phạm thì không phải là tội phạm; hiểu rõ khách thể của tội phạm giúp chúng ta xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.

B- CÁC TỘI XÂM PHẠM CỤ THỂ

  1. TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
  2. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

6 Xem Đinh Văn Quế "Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam ". NXB Cính trị quốc gia. Hà Nội năm 1998. Tr 52-

hoặc giam người trái pháp luật, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ có khoản 3 của điều luật là tội rất nghiêm trọng còn khoản 1 là tội ít nghiêm trọng, khoản 2 là tội nghiêm trọng. Nói chung chủ thể của tội phạm này là bất kỳ, nhưng trong một số trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn nhất định như Bộ đội Biên phòng; Cán bộ kiểm lâm; Cán bộ, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang; Cán bộ, nhân viên Công an nhân dân... Đối với những người này, thông thường phạm tội trong khi thi hành công vụ, cá biệt có trường hợp vì động cơ cá nhân hoặc vụ lợi mà bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. 2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm Khách thể của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là quyền tự do thân thể của công dân, là một trong các quyền cơ bản của công dân. Quyền này được ghi nhận tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể... Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang...” Quyền tự do thân thể của công dân còn được cụ thể hoá bởi những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tại Điều 4 (đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân); Điều 62 (Việc bắt bị can, bị cáo để tam giam); Điều 63 (Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp); Điều 64 (Việc bắt người trong trường hợp quả tang hoặc đang bị truy nã); Điều 68 ( Tạm giữ); Điều 69 (Thời hạn tạm giữ); Điều 70 (Tạm giam ) và Điều 71 ( Thời hạn tạm giam). Có thể nói trong các quyền tự do, dân chủ của công dân thì quyền tự do thân thể là quyền quan trọng hơn cả, nên tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là tội phạm nghiêm trọng hơn các tội phạm khác cũng xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân. Đối tượng tác động của tội phạm này là con người, mà cụ thể là con người bị bắt. Theo Điều 49 Hiến pháp năm 1992 thì, công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Vậy hành vi bắt, giữ hoặc tạm giam người nước ngoài trái pháp luật mà những người này đang công tác hoặc sinh sống tại Việt Nam ( người không có quốc tịch Việt Nam) thì người có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có phạm tội này không? Đây là vấn đề khá phức tạp, vì pháp luật nước ta cũng như các nước trên thế giới đều có quy định về quyền miễn trừ ngoại giao cho một số người nước ngoài, nhưng không phải tất cả những người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam, hơn nữa đối với người nước ngoài thuộc diện miễn trừ ngoại giao cũng không thể loại trừ những hành vi bắt, giữ hoặc giam họ trái pháp luật. Có thể còn ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng theo chúng tôi, đối tượng tác động của tội phạm này không chỉ có người mang quốc tịch Việt Nam (công dân Việt Nam) mà còn đối với cả người nước ngoài công tác hoặc sinh sống tại Việt Nam, vì theo quy định tại Điều 81 Hiến pháp năm 1992 thì, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam nếu

tuân theo Hiến pháp và pháp lụât Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. 3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm a. Hành vi khách quan. Người phạm tội bắt, gĩư hoặc giam người trái pháp luật có thể thực hiện cả ba hành vi: bắt, giữ hoặc giam người, nhưng cũng có thể chỉ thực hiện một trong ba hành vi đó. Do các hành vi này có cùng một tính chất nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật với tên tội danh gồm nhiều hành vi khác nhau, tương tự như Điều 194 Bộ luật hình sự nhà làm luật quy định tội “ tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý”; Điều 232 “tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”.v... Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định tội danh, căn cứ vào hành vi mà người phạm tội thực hiện. Nếu người phạm tội chỉ có hành vi bắt người trái pháp luật thì chỉ định tội là “bắt người trái pháp luật”; nếu người phạm tội thực hiện cả hành vi bắt và hành vi giữ người trái pháp luật thì định tội là “ bắt giữ người trái pháp luật”; nếu người phạm tội thực hiện cả hành vi bắt, hành vi giữ và hành vi giam người trái pháp luật thì định tội là “ bắt, giữ, giam người trái pháp luật”. Bắt người trái pháp luật là hành vi bắt người mà không có lệnh của những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, không thuộc trường hợp phạm tội quả tang, không thuộc trường hợp bắt người có lệnh truy nã hoặc tuy có lệnh của những người có thẩm quyền nhưng việc tiến hành bắt không đúng thủ tục như bắt người vào ban đêm (sau 22 giờ) mà không thuộc trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Hình thức bắt có thể là dùng vũ lực như trói, khoá tay hoặc đe doạ dùng vũ lực buộc người bị bắt phải đến nơi mà người phạm tội đã chọn. Nếu trong quá trình bắt mà gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, của người bị hại thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng với hành vi xâm phạm. Giữ người trái pháp luật là hành vi ra lệnh tạm giữ người không đúng với quy định của pháp luật; giữ người không có lệnh của người có thẩm quyền; giữ người quá hạn; giữ người thuộc trường hợp không được tạm giữ. Giam người trái pháp luật là hành vi ra lệnh tạm giam người không đúng với quy định của pháp luật; giam người không có lệnh của người có thẩm quyền; giam người quá hạn; giam người thuộc trường hợp không được tạm giam. Tính trái pháp luật trong việc bắt, giữ hoặc giam người là việc bắt, giữ hoặc giam người ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Vì vậy, khi xác định hành vi bắt, giữ hoặc giam người có trái pháp luật hay khônh, cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về việc bắt, giữ hoặc giam người. Những quy định này có thể trong luật tố tụng hình sự, nhưng cũng có thể trong luật hành chính nhưng chủ yếu là luật tố tụng hình sự. Bắt, giữ hoặc giam người theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự được quy định như sau:

tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì trả tự do ngay cho người bị bắt. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Theo quy định tại Điều 64, Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã phải tuân theo những quy định sau: - Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. - Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt. - Sau khi nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. - Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh truy nã và giải ngay người đó đến trại giam nơi gần nhất. Trong mọi trường hợp khi bắt người đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc tạm giữ đồ vật của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên bàn giao và nhận phải lập biên bản. Ngoài những điểm đã quy định về biên bản bắt người đã nêu trên, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận. Người ra lệnh bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt phải thông báo ngay. Tạm giữ. Theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng hình sự, thì tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp thì cũng có quyền ra lệnh tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc

tạm giữ không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ lệnh tạm giữ và trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. Theo quy định tại Điều 69, thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày đêm, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời gian tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam. Tạm giam. Theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự, thì tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong những trường hợp sau: - Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; - Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. - Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ trường hợp đặc biệt. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn không quá ba mươi ngày, kẻ từ khi nhận được tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện trưởng Viện kiểm sát phải r a quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩchấp hành Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bi tạm giam cư trú hoặc làm việc biết. Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự thì thời hạn tạm giam được quy định như sau: + Thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. + Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: - Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu trở lên có quyền gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng đối