Có bao nhiêu hình thức lãnh thổ công nghiệp năm 2024

- Sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất kĩ thuật, nguồn lao động nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường.

- Góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước đang phát triển.

II. MỘT SỐ HÌNH THỨC CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP

1. Điểm công nghiệp

  1. Khái niệm

- Là hình thức tổ chức công nghiệp đơn giản nhất, trên đó gồm một hoặc hai ba xí nghiệp được phân bố ở nơi gần nguồn nguyên, nhiên liệu.

  1. Đặc điểm

- Gồm nhiều xí nghiệp phân bố lẻ tẻ, phân tán.

- Nằm cùng với một điểm dân cư.

- Phân công lao động về mặt địa lí, các xí nghiệp độc lập về kinh tế, làm ra sản phẩm hoàn chỉnh.

- Được hình thành hầu hết ở các tỉnh, thôn xã, thành phố nhằm khai thác nguồn tài nguyên, tận dụng nguồn lao động tại chỗ.

- Quy mô nhỏ.

2. Khu công nghiệp tập trung [KCN]

  1. Khái niệm

- Là khu vực có ranh giới nhất định, có cơ sở hạ tầng tương đối tốt, sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

  1. Đặc điểm

- Vị trí địa lí thuận lợi, không có dân cư sinh sống.

- Có ranh giới rõ ràng.

- Tập trung nhiều xí nghiệp công nghiệp có khả năng hợp tác sản xuất cao.

- Chi phí sản xuất thấp, các sản phẩm để tiêu dùng trong nước hoặc xuất khẩu.

- Được hưởng các chính sách ưu tiên của Nhà nước.

- Quy mô: Diện tích 50 ha đến vài trăm ha.

3. Trung tâm công nghiệp

  1. Khái niệm

- Là hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở trình độ cao, là khu vực tập trung công nghiệp gắn với đô thị vừa và lớn.

  1. Đặc điểm

- Vị trí địa lí thuận lợi.

- Gồm nhiều điểm công nghiệp, khu công nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ về quá trình công nghệ.

- Có các xí nghiệp nòng cốt hay hạt nhân và các xí nghiệp dịch vụ hỗ trợ.

- Là nơi tập trung các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến.

- Nơi có dân cư sinh sống, có cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ sở hạ tầng tương đối hoàn hảo.

- Công nhân có trình độ tay nghề cao.

- Có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế quốc dân.

- Quy mô lớn.

4. Vùng công nghiệp

  1. Khái niệm

- Đây là hình thức cao nhất của tổ chức lãnh thổ công nghiệp.

- Có hai loại

+ Vùng công nghiệp ngành: là tập hợp các xí nghiệp cùng loại.

+ Vùng công nghiệp tổng hợp: gồm các xí nghiệp, cụm công nghiệp tập trung, khu công nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

+ Gồm nhiều khu công nghiệp, xí nghiệp công nghiệp, điểm công nghiệp, liên hệ chặt chẽ về sản xuất, kĩ thuật và công nghệ.

+ Có các xí nghiệp làm hạt nhân

+ Có các dịch vụ hỗ trợ sản xuất.

+ Dựa vào vai trò của trung tâm công nghiệp trong sự phân công lao động theo lãnh thổ có thể phân thành TTCN ý nghĩa quốc gia, vùng, địa phương...

+ Dựa vào giá trị sản xuất công nghiệp chia thành TTCN rất lớn, lớn. Trung bình, nhỏ...

- TTCN ý nghĩa quốc gia: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội

- TTCN ý nghĩa vùng: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ...

- TTCN ý nghĩa địa phương: Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Nha Trang...

- TTCN rất lớn: TP Hồ Chí Minh

- TTCN lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Biên Hòa, Thủ Dầu Một...

- TTCN trung bình: Việt Trì, Đà Nẵng, Nha Trang...

- TTCN nhỏ: Quy Nhơn, Nam Định...

Vùng công nghiệp

+ Vùng lãnh thổ rộng lớn gồm tất cả các hình thức tổ chức công nghiệp nhỏ hơn, có môi liên hệ vê sản xuất và những nét tương đồng trong quá trình hình thành công nghiệp.

Bài 27: Vai trò, đặc điểm, các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển và phân bố nông nghiệp... Câu 1: Hãy nêu vai trò và đặc điểm của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế và đời sống xã hội. Hãy giải thích tại sao ở các nước phát triển, nông nghiệp mang dần tính chất công nghiệp? Câu 2: Tại sao đối với nhiều nước đang phát triển, đông dân, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ chiến lược hàng...

MỞ ĐẦU

Xã hội loài người đã trải qua thời kì văn minh nông nghiệp và chuyển sang thời kì văn minh công nghiệp cách đây gần 200 năm. Ngay sau khi ra đời, sản xuất công nghiệp đã phát triển không ngừng và hiện đang là ngành chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong sản xuất công nghiệp, ngoài những yếu tố đầu ra và đầu vào của sản xuất thì việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp hợp lí cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành. Tính hợp lí trong tổ chức lãnh thổ sẽ giúp sản xuất công nghiệp đạt được hiệu quả cao cả về kinh tế, xã hội và môi trường thông qua việc khai thác và sử dụng hợp lí các nguồn lực. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp không phải là một hiện tượng bất biến do chịu tác động của các yếu tố như tiến bộ về khoa học - công nghệ, thị trường… vốn là những yếu tố có tính chất “động”. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp luôn có sự biến đổi, phù hợp với sự phát triển của sản xuất. Sự biến đổi đó thể hiện qua sự phát triển về số lượng của các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cũng như vai trò, đặc điểm của mỗi hình thức. Thực tiễn trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng của tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, do không phải là một hiện tượng bất biến nên việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ công nghiệp cũng luôn cần đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Những kết quả nghiên cứu phản ánh đúng đắn thực trạng cũng như xu hướng phát triển của tổ chức lãnh thổ công nghiệp sẽ có giá trị rất cao cả về mặt lí luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ công nghiệp đòi hỏi nhiều yêu cầu [về năng lực, thời gian, nguồn tư liệu…] vì thế trong phạm vi của đề tài, các tác giả chỉ xin đưa ra những lí luận cũng như ví dụ minh họa mang tính chất khái quát nhằm cung cấp cho đồng nghiệp những nội dung cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy là chủ yếu.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP

  1. TỔ CHỨC LÃNH THỔ 1. Khái niệm Khái niệm tổ chức lãnh thổ bắt nguồn từ cơ sở lí thuyết kinh tế kinh điển của A.Smith và D.Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của V. Thunen, W.Christaller… và một số tác phẩm khác. Sau đó được phát triển về mặt lí luận và ứng dụng vào thực tiễn từ những năm 50 tại các nước châu Âu. Ở Liên Xô, vào đầu những năm 60, thuật ngữ này đã được đề cập đến. Về sau, khái niệm tổ chức lãnh thổ được nhiều nước tiếp nhận và sử dụng, đặc biệt là vào Mĩ từ đầu những năm 70. Từ đó đến nay, khái niệm này được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và sử dụng rộng rãi với tư cách là công cụ tư duy tổng hợp, công cụ tổ chức thực tiễn các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế lĩnh vực này cũng có rất nhiều những quan niệm khác nhau. Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Liên Xô cũ trước đây thì tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau; phổ biến là trên các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chính tỉnh. Họ coi tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là sự sắp xếp, bố trí [phân bố] và phối hợp các đối tượng gây ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ thống dân cư; nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí kinh tế - xã hội để đạt hiệu quả kinh tế cao vào nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó. [Xauxkin]. Ở các nước phương Tây, các nhà khoa học lại tiếp cận vấn đề này theo hướng tổ chức không gian. Họ cho rằng tổ chức không gian ra đời từ cuối thế kỉ XIX và đã trở thành một khoa học kinh tế lãnh thổ. Tổ chức không gian được xem như là nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả [J.Gaudermar, 1992]. Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức không gian là tìm kiếm một tỉ lệ và quan hệ hợp lí về phát triển kinh tế - xã hội giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng hoặc giữa các vùng trong một quốc gia và trên mức độ nhất định có xét đến mối liên kết giữa các quốc gia với nhau; tạo ra một giá trị mới nhờ có sự sắp xếp có trật tự và hài hoà giữa các đơn vị lãnh thổ khác nhau trong cùng một vùng đó. Tóm lại, nội dung tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội ở đây có thể hiểu là "sự tìm kiếm trong khung cảnh địa lí quốc gia, sự phân bố tốt nhất các hoạt động tuỳ thuộc vào các tài nguyên thiên nhiên". Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là nội dung cụ thể của một chính sách kinh tế phát triển theo lãnh thổ dài hạn nhằm cải thiện môi trường trong đó diễn ra các cuộc sống và hoạt động của con người. Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội ở góc độ địa lí học, được xem như là một hành động có chủ ý hướng tới sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân đối giữa quần cư nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường. Như vậy, từ các nội dung đã phân tích ở trên chúng ta có thể hiểu "Tổ chức lãnh thổ là sự sắp xếp và phối hợp các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành, lĩnh vực và đa ngành lãnh thổ trong một vùng cụ thể nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư của vùng đó". Bản chất của tổ chức lãnh thổ chính là tìm ra phương án hợp lý nhất về kiến thiết lãnh thổ làm sao cho trong quá trình phát triển của các ngành, lĩnh vực theo cùng hướng và liên hệ mật thiết với nhau tạo ra tính nhất quán cần thiết, mà đó là đòi hỏi của hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao và có được sự phát triển bền vững cho lãnh thổ và cho cả hệ thống lớn hơn. Do đó, những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức lãnh thổ được đặt ra là: - Tổ chức lãnh thổ phải đặt trong trạng thái động: yêu cầu này cho rằng phải coi hệ thống kinh tế - xã hội là hệ thống vận động không ngừng; có những yếu tố không thể biết trước và dự báo được một cách chính xác nên dễ gây ra những rủi ro lớn. Hệ thống này vận động không ngừng vì nhu cầu con người không ngừng tăng lên và không có giới hạn, song khả năng đáp ứng nhu cầu đó thì có giới hạn, dẫn đến những cạnh tranh, giành giật và gây ra những mâu thuẫn, tiền đề nảy sinh sự không bền vững trong hệ thống. Vấn đề này cũng cho thấy tổ chức lãnh thổ phải làm thế nào để có được một cơ cấu hợp lý trên cơ sở giải quyết những cân đối giữa sản xuất và nhu cầu. - Tổ chức lãnh thổ cần phải đạt mục tiêu phát triển trong thế vận động tiến bộ và bền vững: hệ thống lãnh thổ bao gồm nhiều phân hệ, các phân hệ và cấu trúc của từng phân hệ cũng như toàn hệ thống luôn có xu hướng chuyển động đa chiều. Do đó, một vấn đề quan trọng là tổ chức lãnh thổ thế nào đề hệ thống phát triển không ngừng và đạt được hiệu quả thì cần phải điều khiển tất cả các liên hệ theo một hướng nhất định. Các vấn đề nêu trên đặt ra cho tổ chức lãnh thổ phải xác định được mục tiêu phát triển và xác định được các giải pháp kiến thiết lãnh thổ tạo được phát triển hài hoà, nhịp nhàng cho toàn bộ hệ thống lãnh thổ. - Tổ chức lãnh thổ cần phải lựa chọn được các phương án kiến thiết hợp lý, dài hạn: theo yêu cầu này, tổ chức lãnh thổ phải được nghiên cứu theo nhiều phương án, mỗi phương án mang đậm nét một điểm nổi trội của nghệ thuật kiến thiết lãnh thổ. Trong các phương án phải có phương án chủ và phương án dự phòng. Ngay trong phương án chủ cũng phải dành những lãnh thổ dự trữ, phải có thứ tự ưu tiên về lãnh thổ, phải có những quy định rõ ràng về mức độ và phương thức sử dụng không gian. - Tổ chức lãnh thổ cần phải đảm bảo một trật tự ngắn hạn cũng như yêu cầu phát triển dài hạn: Các đối tượng tổ chức cần được đặt đúng vị trí của nó, làm cho các đối tượng hỗ trợ nhau cùng phát triển, không cản trở và không làm tổ hại đến nhau trong quá trình thịnh vượng. Khi thực hiện tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ cấp tỉnh nói riêng phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: - Phải thoả mãn nhu cầu về khả năng tài nguyên và nhu cầu xã hội, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. - Đảm bảo tính phù hợp với trình độ nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. - Phải kiến thiết được các khu nhân [các trung tâm đô thị, khu vực ngoại vi] để tạo nên sức hút kinh tế. 2. Một số lý thuyết liên quan đến tổ chức lãnh thổ Kinh tế lãnh thổ và những lý thuyết kinh tế quan trọng có liên quan đến nhau. Các nhà địa lý kinh tế - xã hội nghiên cứu kinh tế lãnh thổ, phát hiện những vấn đề có tính quy luật và đúc rút chúng thành những lý thuyết phát triển kinh tế và không gian kinh tế của sự phát triển. Dưới đây là một số lí thuyết phổ biến. 2.1. Lý thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp xung quanh thành phố trung tâm của V. Thunen [1883] Thành phố trung tâm có sức hấp dẫn đối với các hoạt động nông nghiệp xung quanh. Thunen xem địa tô chênh lệch như là một nhân tố chìa khoá dẫn đến sự phân định lãnh thổ đồng nhất của một quốc gia thành các vùng sử dụng đất đai khác nhau. Từ năm 1826, Thunen là người đầu tiên đưa ra các yếu tố không gian của các hiện tượng kinh tế xã hội. Ông lập ra mô hình toán học về không gian của hệ thống các vùng nông nghiệp đang hình thành dưới ảnh hưởng của thành phố. Theo lý thuyết này xung quanh một thành phố trung tâm có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hoá nông nghiệp theo nghĩa rộng: vành 1 là vành thực phẩm; vành 2 là vành lương thực, thực phẩm; vành 3 là vành cây ăn quả; vành 4 là vành lương thực và chăn nuôi; vành 5 là vành lâm nghiệp [cây xanh]. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quy mô của thành phố trung tâm mà xác định số lượng vành đai, cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp. 2.2. Lý thuyết định vị của A. Weber với vấn đề phân bố công nghiệp Lý thuyết định vị của A. Weber ra đời từ đầu thế kỉ XX đã giải thích sự tập trung công nghiệp vào một địa phương do 3 nguyên nhân: chi phí vận tải rẻ nhất được coi là nguyên nhân căn bản; chi phí về nhân công rẻ nhất và là nơi xí nghiệp tập trung để có thể sử dụng phế liệu làm nguyên liệu rẻ tiền. Trên cơ sở xác định nguyên tắc "cực tiểu hoá chi phí, cực đại hoá lợi nhuận" A.Weber đưa ra mô hình không gian về phân bố công nghiệp. Tư tưởng của G.Thunen và A.Weber đều coi thành phố, các cửa vào ra là những "nút" những trọng điểm của lãnh thổ. Sức lan toả của chúng có ảnh hưởng rất lớn xung quanh thành phố [nút] là các vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đều phục vụ cho một trung tâm. Lý thuyết này phù hợp với một nền kinh tế mà quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá chưa mạnh. Nó có ý nghĩa trong việc xác định vai trò của trung tâm, của điểm "trồi" ở những khu vực mà kinh tế còn chậm phát triển. 2.3. Lý thuyết phát triển các điểm trung tâm của W. Christaller - Mỹ [1933] Lý thuyết về điểm trung tâm của W.Christaller [Mỹ - 1933] được hoàn thiện trên những ý tưởng và mô hình của G.Thunen và A.Weber, cũng như những luận điểm cơ bản của Newton về lực hấp dẫn. W.Christaller đã góp phần to lớn vào việc tìm kiếm quy luật của sự phát triển sản xuất và toàn bộ lĩnh vực phi sản xuất theo không gian. W.Christaller cho rằng, không có nông thôn nào lại không chịu sự của một cực hút, đó là thành phố. Sự biến đổi của chi phí cho các cơ sở hạ tầng phụ thuộc vào vấn đề đô thị hoá. Như vậy, chi phí cho cơ sở hạ tầng sẽ tăng theo những tỉ lệ lớn và ảnh hưởng đến chi phí đầu tư cho quy hoạch lãnh thổ. Thành phố là một trung tâm cho tất cả các điểm dân cư khác của vùng, đảm bảo cung cấp hàng hoá cho chúng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều cấp, từ cao tới thấp. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa chọn hàng hoá và dịch vụ, còn các trung tâm cấp thấp ít có khả năng lựa chọn hơn. Ông quan niệm, thành phố như những cực hút, hạt nhân của sự phát triển. Thành phố là các đối tượng để đầu tư có trọng điểm trên cơ sở nghiên cứu mức độ thu hút và mức độ ảnh hưởng của chúng đến các vùng xung quanh thông qua bán kính vùng tiêu thụ các sản phẩm. Chỉ trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, giới hạn thị trường được xác định; bên ngoài ngưỡng giới hạn, không có lợi trong việc phục vụ hàng hoá. Lý thuyết trung tâm của W.Christaller được nhà bác học người Đức - A.Losch bổ sung và phát triển. Ông cho rằng, có một điểm trung tâm chung. Điểm trung tâm này là thành phố quan trọng nhất, là đầu mối của toàn bộ hệ thống các điểm dân cư. Vai trò buôn bán và phục vụ của nó khống chế toàn bộ các vùng phụ thuộc. Công lao của W.Christaller và A.Losch ở chỗ đã khám phá quy luật phân bố không gian từ tương quan giữa các điểm dân cư, phát hiện một trật tự được tính toán trong sự phân bố các thành phố và nông thôn. Điều đó được áp dụng khi quy hoạch các điểm dân cư trên các những lãnh thổ mới khai phá, hoặc nghiên cứu các hệ thống không gian, hay làm cơ sở để xác định các nút trọng điểm. Lý thuyết này chính là cơ sở để bố trí các điểm đô thị , các điểm "trồi" được đồng đều trên lãnh thổ thông qua lực hút từ trung tâm. 2.4. Lý thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux - Pháp [1950] Francoi Perroux quan tâm đến đô thị theo khía cạnh khác, đó là trình độ phát triển của chúng. Ông quan niệm các đô thị là các “cực”. Hệ thống các cực tương tác với nhau, lan toả ảnh hưởng ra xung quanh. Vào năm 1950, nhà bác học người Pháp tiến hành nghiên cứu hệ thống các đô thị trong một vùng lãnh thổ ở Pháp. Ông thấy rằng, trong hệ thống các đô thị [mà ông gọi là các cực] có những đô thị đã phát triển tới mức hoàn chỉnh và có những đô thị đang mở mang sự phát triển. Ông gọi những đô thị đã hoàn thiện sự phát triển là những cực phát triển, còn những đô thị đang trong quá trình mở mang sự phát triển là những cực tăng trưởng. Nói một cách cụ thể hơn, cực phát triển là những trung tâm đô thị đã hoàn thiện hoặc tương đối hoàn thiện về chức năng và sự phát triển, đã bước vào giai đoạn phát triển tương đối hoặc ổn định về quy mô và chức năng. Còn cực tăng trưởng là những đô thị mới hình thành và đang trong quá trình phát triển tiến tới hoàn thiện. Căn cứ vào những dấu hiệu ấy người ta bố trí hay không bố trí gần một cực nào đó một điểm đô thị mới. Đó là đóng góp quan trọng của Francoi Perroux. Trong thực tế, trong quá trình triển khai tổ chức lãnh thổ người ta rất hay sử dụng lý thuyết của W. Christaller và F. Perroux để nghiên cứu phát triển các đô thị mới, hoàn thiện những đô thị và phát triển những cụm [chùm] hoặc chuỗi đô thị đã có hoặc mới. Trong chuỗi hoặc chùm đô thị đó có những đô thị đã có, những đô thị đang trưởng thành và những đô thị sẽ phải phát triển mới hoặc mở rộng quy mô; từ đó làm cho tất cả các khu vực lãnh thổ không trống vắng đô thị và văn minh đô thị. Tác giả nhận thấy việc phát triển hệ thống đô thị luôn luôn là vấn đề quan trọng trong tổ chức lãnh thổ kinh tế ở cả cấp quốc gia, cấp vùng và cấp tỉnh cũng như cấp huyện. Tại nhiều quốc gia, người ta thường kết hợp lý thuyết điểm trung tâm của W. Christaller và lý thuyết cực của F. Perroux để tổ chức chùm và chuỗi [hoặc dải] đô thị. Chuỗi và chùm đô thị phát triển trên cơ sở những đô thị vừa mang ý nghĩa như những cực vừa mang ý nghĩa như những trung tâm tác động qua lại với nhau trong một mạng lưới chung. Trong chuỗi hoặc chùm đô thị có thể có trung tâm đô thị được xem như những cực đã phát triển và cũng có những đô thị trung tâm được xem như những cực đang tăng trưởng. 2.5. Lý thuyết cơ sở xuất khẩu Lý thuyết cơ sở xuất khẩu phát triển ở Hoa Kỳ từ trước năm 1950. Lúc đầu, nó chỉ tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế của những trung tâm buôn bán lớn và về sau được nâng lên thành mô hình phổ biến cho các nước đang phát triển. Theo thuyết này, chỉ có các hàng hoá sản xuất phục vụ cho thị trường bên ngoài [tức là hàng xuất khẩu] mới được coi là cơ sở để phát triển kinh tế cho một vùng. Các hoạt động kinh tế như vậy tác động đến nhịp độ tăng trưởng việc làm và thu nhập. Từ đó, nền kinh tế trong một vùng được chia thành các ngành cơ bản và các ngành không cơ bản. Tư tưởng chủ đạo của mô hình xuất khẩu là ở chỗ đối với các vùng kinh tế kém phát triển cần phải tìm ra khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc hướng ngoại. Nhân tố quan trọng đối với cực tăng trưởng của vùng là những thúc đẩy xuất phát từ đòi hỏi bên ngoài. Lợi nhuận có được từ lĩnh vực xuất khẩu là điều kiện cần và đủ để khuyến khích nhu cầu gia tăng thị trường nội địa. Một số mô hình kinh tế hướng vào xuất khẩu đã được thực hiện thành công ở Đài Loan, Hàn Quốc, Xingapo… Một dạng khác khác của lý thuyết này là lý thuyết về sự phụ thuộc, mà sau này trở thành cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu của nhiều quốc gia. Nó được hình thành từ cuộc tranh luận của các nhà kinh tế học ở Mỹ Latinh khoảng giữa những năm 50 của thế kỷ XX. Theo thuyết này, trong điều kiện thế giới có sự phục thuộc lẫn nhau thì các nước đang phát triển chỉ có thể phát triển được bằng cách dựa vào nguồn vốn và công nghệ tiên tiến của các nước phát triển. Thế mạnh của các nước đang phát triển là nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, lực lượng lao động dồi dào và rẻ. Hạn chế chính là thiếu vốn và công nghệ hiện đại, năng lực quản lý kém, thị trường tiêu thụ nhỏ. Trong quá trình thực hiện mô hình hướng vào xuất khẩu, bên cạnh những thành công, thực tiễn chỉ ra rằng cái giá phải trả cũng không nhỏ. Đó là sự phụ thuộc chặt chẽ vào bên ngoài, nền kinh tế bị mất cấn đối nghiêm trọng về phương diện ngành và lãnh thổ, phân hoá giàu nghèo rõ rệt…

II. TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp Dựa trên những cơ sở lý luận và quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế nói trên ta có thể tiếp cận với khái niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp như sau: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền sản xuất xã hội theo lãnh thổ. Trải qua quá trình lâu dài, được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, thuật ngữ tổ chức lãnh thổ công nghiệp được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu khoa học và thực tiễn. A.T. Khơrutsov [1979] đã cho rằng: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ khác nhau trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động cũng như tiết kiệm chi phí để khắc phục sự không phù hợp đã xuất hiện trong lịch sử về việc phân bố các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, nơi sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm, góp phần đạt hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay tổ chức lãnh thổ công nghiệp được nhìn nhận là hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ trên cơ sở sử dụng hợp lý nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Tổ chức lãnh thổ không phải là một hiện tượng bất biến. So với nông nghiệp tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể thay đổi trong một thời gian tương đối ngắn. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì trong thời đại ngày nay dưới tác động của sự tiến bộ khoa học và công nghệ, nhu cầu của người tiêu dùng và cả bản thân thị trường cũng thường xuyên thay đổi. Vì vậy muốn tồn tại và phát huy tác dụng, tổ chức lãnh thổ công nghiệp không thể xơ cứng và chậm biến đổi, mặc dù về mặt lý luận mỗi hình thái kinh tế - xã hội sẽ có các kiểu hình thái tổ chức lãnh thổ công nghiệp tương ứng. Ở nước ta, số lượng các công trình nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ công nghiệp không nhiều. Tuy nhiên, tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể được coi là việc bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất công nghiệp, các cơ sở phục vụ cho hoạt động công nghiệp, các điểm dân cư, cùng kết cấu hạ tầng trên phạm vi một lãnh thổ nhất định, nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài của lãnh thổ đó. Thực tiễn ở nước ta cũng chỉ ra rằng, quá trình hình thành và phát triển một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp [điểm, cụm, khu, trung tâm công nghiệp] gắn liền với quá trình đô thị hoá. Quá trình này, một mặt làm xuất hiện những đô thị mới và mặt khác, cải tạo hoặc nâng cấp các đô thị cũ. Giữa đô thị hoá và phát triển công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ. Việc phát triển và phân bố công nghiệp là cơ sở quan trọng nhất để hình thành và phát triển đô thị. Mặt khác, mạng lưới đô thị khi đã ra đời và nhất là có kết cấu hạ tầng ở mức độ nhất định sẽ trở thành nơi hấp dẫn, làm cơ sở phát triển các tổ chức lãnh thổ công nghiệp. 1.2. Một số đặc điểm của tổ chức lãnh thổ công nghiệp Trong tổ chức lãnh thổ công nghiệp, các ngành và lãnh thổ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một mặt nếu thiếu hiểu biết về những đặc điểm kinh tế - kĩ thuật và đặc điểm phân bố của từng ngành thì không thể xác định đúng đắn dù chỉ một kết hợp một không gian của các xí nghiệp ở bất kì hình thức nào. Mặt khác, đến lượt mình, một ngành [phân ngành] lại được xem xét dưới hai góc độ: xuyên qua lăng kính của tất cả các ngành công nghiệp [và cả nền kinh tế nói chung] và sự kết hợp của các ngành khác nhau trên cùng một lãnh thổ. Khi xác định đặc điểm của từng ngành công nghiệp, nổi lên một số vấn đề quan trọng dưới đây: - Vai trò của ngành trong nền kinh tế và trong sự phân công lao động theo lãnh thổ của vùng hoặc của cả nước. - Các mối liên hệ qua lại của nó với các ngành khác. - Các chức năng tạo vùng và ảnh hưởng của nó đến việc hình thành các không gian công nghiệp. - Các đặc điểm về chuyên môn hoá, cấu trúc và tổ chức sản xuất theo lãnh thổ. - Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - kỹ thuật và hiệu quả của sản xuất. - Phân vùng sản xuất và việc phân chia các khu vực tiêu thụ sản phẩm. - Các xu hướng thay đổi về mặt lãnh thổ. Dĩ nhiên, khi nghiên cứu các ngành thuần tuý thì chưa thể coi là đầy đủ. Song nếu không vạch ra được đặc điểm của chúng thì rõ ràng nó có được những kết luận đúng đắn về các quy luật phát sinh và phát triển của các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Như vậy, khi đề cập tới khái niệm tổ chức lãnh thổ công nghiệp tất yếu phải nghiên cứu mối quan hệ giữa các ngành với các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Mỗi ngành công nghiệp đều có sự thống nhất nào đó về kỹ thuật sản xuất. Nó tập hợp các xí nghiệp tương đối giống nhau về sản phẩm sản xuất ra, về nguyên liệu sử dụng, kỹ thuật và quy trình công nghệ, các yếu tố phân bố và nhiều dấu hiệu khác. Song bản thân mỗi ngành lại có vô số các mối liên hệ sản xuất rất phức tạp. Các xí nghiệp thuộc một ngành có thể được phân bố tách rời nhau về mặt không gian. Ngược lại, các xí nghiệp thuộc một số ngành khác lại có thể nằm trên cùng một lãnh thổ và trong quá trình tác động qua lại của chúng tạo nên các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Đặc điểm về cấu trúc có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nó được thể hiện qua tính cân đối và mối liên hệ bên trong. Các kết hợp sản xuất lãnh thổ càng phức tạp bao nhiêu thì các mối quan hệ bên trong của chúng càng đa dạng bấy nhiêu. Chiều sâu của tổ chức lãnh thổ công nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất. Trình độ phát triển công nghiệp thể hiện ở quy mô và hiệu quả sản xuất cần đạt được trong một thời điểm nào đó. Vấn đề là ở chỗ khối lượng và hiệu quả của nó phụ thuộc nhiều vào độ lớn và thành phần của nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động, trình độ và cả việc sử dụng chúng một cách hợp lý nhất. Về phía mình, trình độ phát triển sản xuất cũng ảnh hưởng lại tới cấu trúc và tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Tiêu chuẩn tối ưu của tổ chức lãnh thổ công nghiệp là hiệu quả kinh tế, xã hội, và môi trường . 1.3. Yêu cầu của việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp - Để đạt được mục tiêu đề ra tổ chức lãnh thổ công nghiệp phải thực hiện một số nhiệm vụ chính sau: + Sử dụng hợp lý, có hiệu quả nhất các nguồn lực của lãnh thổ [điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế, xã hội...]. + Giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan, đặc biệt là các vấn đề việc làm cho một bộ phận lao động của lãnh thổ. + Giảm thiểu sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa phương trong lãnh thổ nghiên cứu nói riêng và giữa các vùng trong phạm vi cả nước nói chung thông qua quá trình lựa chọn và phân bố công nghiệp. + Bảo vệ và tôn tạo tài nguyên, môi trường nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững; kết hợp phát triển công nghiệp với an ninh, quốc phòng. + Dự báo để có chiến lược phát triển thích hợp. - Mục đích cao nhất của tổ chức lãnh thổ công nghiệp là góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, thị trường là yếu tố sống còn. Vì vậy, cần phải mở rộng và chiếm lĩnh được thị trường [trong nước và quốc tế] bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để sản phẩm sản xuất ra có đủ khả năng cạnh tranh được với hàng ngoại. - Công nghiệp hoá là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra không phải trong một thời gian ngắn. Do đó, cần phải có một chiến lược phát triển với những phân đoạn thích hợp. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp 2.1. Nguồn lực bên trong 2.1.1. Vị trí địa lý Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị. Vị trí địa lý tác động rất lớn đến việc lựa chọn địa điểm xây dựng xí nghiệp, cũng như phân bố các ngành công nghiệp và các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. - Nhìn chung, vị trí địa lý có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành cơ cấu ngành công nghiệp và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trong điều kiện tăng cường mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Sự hình thành và phát triển các xí nghiệp các ngành công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý. Có thể thấy rõ hầu hết các cơ sở công nghiệp ở các quốc gia trên thế giới đều được bố trí ở các khu vực có vị trí địa lí thuận lợi như gần các trục đường giao thông, sân bay, bến cảng, gần nguồn nước, khu vực tập trung đông dân cư. - Vị trí thuận lợi hay không thuận lợi tác động mạnh đến việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp, bố trí không gian các khu vực tập trung công nghiệp. Vị trí càng thuận lợi thì mức độ tập trung công nghiệp càng cao, các hình thức tổ chức công nghiệp càng đa dạng và phức tạp. Ngược lại những khu vực có vị trí địa lí kém thuận lợi sẽ gây trở ngại cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp cũng như việc kêu gọi vốn đầu tư. Ví dụ: thực tiễn đã chỉ ra rằng sự thành công của các khu công nghiệp và khu chế xuất trên thế giới trên thế giới thường gắn liền với sự thuận lợi về vị trí địa lí. Khu vực Đông Nam Á hiện nay được đánh giá là một trong những khu vực có vị trí địa lí thuận lợi: bao gồm cả vị trí tự nhiên, kinh tế, giao thông, chính trị. Là khu vực cầu nối giữa Châu Á và Châu Úc, giao thông đường biển và đường hàng không rất thuận lợi giữa các quốc gia trong khu vực và các cường quốc kinh tế lớn như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ… Đây là khu vực có chính trị ổn định môi trường đầu tư tốt. Hiện nay Đông Nam Á là khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới và thu hút được vốn đầu tư rất lớn. Việt Nam trong số hơn 100 địa điểm có thể xây dựng được các khu công nghiệp tập trung thì có khoảng 40 nơi thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước do có vị trí địa lí thuận lợi. Một trong các khu công nghiệp tương đối thành công hiện nay là khu công nghiệp Dung Quất – Quảng Ngãi là nhờ có một vị trí địa lí thuận lợi. Dung Quất nằm ở một vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông đường bộ, hàng hải cũng như hàng không: nằm bên Quốc lộ 1A, Đường sắt Bắc - Nam, Quốc lộ 24 nối với Tây Nguyên và các nước thuộc Tiểu Vùng sông Mê Kông [một trong 5 tuyến đường ngang của hệ thống đường xuyên Á chạy qua Việt Nam, có cảng nước sâu Dung Quất và có sân bay quốc tế Chu Lai, cách tuyến nội hải 30 km và cách tuyến hàng hải quốc tế 90km. Về mặt địa lý, Dung Quất có thể được xem là vị trí trung tâm điểm của Việt Nam và của Đông Nam Á. 2.1.2. Nguồn lực tự nhiên Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất không thể thiếu được để phát triển và phân bố công nghiệp. Nó ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành và xác định cơ cấu ngành công nghiệp. Số lượng, chất lượng, phân bố và sự kết hợp của chúng trên lãnh thổ có ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình phát triển và phân bố của nhiều ngành công nghiệp.

  1. Khoáng sản: Khoáng sản là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa hàng đầu đối với việc phát triển và phân bố công nghiệp. Khoáng sản được coi là “bánh mì” cho các ngành công nghiệp. Số lượng chủng loại, trữ lượng, chất lượng khoáng sản và sự kết hợp các loại khoáng sản trên lãnh thổ sẽ chi phối quy mô, cơ cấu và tổ chức các xí nghiệp công nghiệp. Ví dụ: Khoáng sản thế giới phân bố không đồng đều. Có những nước giàu tài nguyên khoáng sản như Hoa Kì, Trung Quốc, Canađa, Liên Bang Nga, Ấn Độ…Có những nước nổi tiếng với một loại khoáng sản như Chi Lê [đồng], khu vực Tây Á là nơi tập trung tới hơn một nửa trữ lượng dầu của thế giới, do vậy ở đây đã rất phát triển ngành công nghiệp khai thác dầu có qui mô lớn, chẳng hạn ở Ảrập Xêut, Côoet, Iran, Irắc… Việt Nam được đánh giá là có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi hình thành và phát triển các ngành công nghiệp từ Bắc tới Nam: Khai thác than ở Quảng Ninh, khai thác và chế biến quặng sắt ở Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Apatit ở Lào Cai, bôxit ở Tây Nguyên, đá vôi ở các tỉnh phía Bắc…
  2. Khí hậu và nguồn nước Nguồn nước có ý nghĩa rất lớn đối với các ngành công nghiệp. Mức độ thuận lợi hay khó khăn về nguồn cung cấp nước hoặc thoát nước là điều kiện quan trọng để định vị các xí nghiệp công nghiệp. Nhiều ngành công nghiệp được phân bố gần nguồn nước như: công nghiệp luyện kim, công nghiệp dệt, công nghiệp giấy, hóa chất và chế biến thực phẩm… Những vùng có mạng lưới sông ngòi dày đặc và chảy trên các dạng địa hình khác nhau tạo nên tiềm năng cho công nghiệp thủy điện. Ví dụ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng đập Tam Điệp chặn sông Trường Giang [con sông lớn thứ 3 thế giới] và đến nay nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới, với công suất phát điện 18.200MW, điện lượng 84,3 tỷ KWh/năm. Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc, nguồn nước dồi dào, là cơ sở cho việc xây dựng các nhà máy thủy điện có công suất lớn phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và đời sống con người như nhà máy thủy điện Hòa Bình có công suất 1,92 triệu KW trên sông Đà, thủy điện Trị An có công suất 400 MW trên sông Đồng Nai, thủy điện Tuyên Quang 342MW. Khí hậu cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phân bố công nghiệp. Đặc điểm khí hậu có tác động không nhỏ đến hoạt động của các ngành công nghiệp khai khoáng. Trong một số trường hợp nó chi phối cả việc lựa chọn kĩ thuật và công nghệ sản xuất. Ví dụ ở một số nước có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa làm cho máy móc dễ bị hư hỏng. Vì vậy đòi hỏi phải nhiệt đới hóa trang thiết bị sản xuất.
  3. Các nhân tố tự nhiên khác Các nhân tố tự nhiên khác có tác động đến sự phát triển và phân bố công nghiệp như đất đai, tài nguyên sinh vật… - Về mặt tự nhiên đất ít có giá trị đối với công nghiệp nhưng quỹ đất dành cho công nghiệp và địa chất công trình cũng ít nhiều ảnh hưởng đến quy mô hoạt động và vốn thiết kế cơ bản. - Tài nguyên sinh vật cũng tác động tới sản xuất công nghiệp. Rừng và hoạt động lâm nghiệp là nơi cung cấp vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến giấy, gỗ, tiểu thủ công nghiệp… 2.1.3. Nguồn lực kinh tế - xã hội
  4. Dân cư và nguồn lao động Dân cư và nguồn lao động có vai trò thúc đẩy sự phát triển tổ chức lãnh thổ công nghiệp, nếu không có nhân tố con người thì công nghiệp sẽ không phát triển được. Dân cư và nguồn lao động vừa là lực lượng sản xuất vừa là thị trường tiêu thụ. Dân cư và nguồn lao động là lực lượng sản xuất chủ yếu, là một trong những điều kiện quan trọng phát triển và phân bố công nghiệp. Những ngành cần nhiều lao động như dệt, may, chế tạo máy… thường phân bố ở nơi đông dân cư. Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người cũng thường phân bố ở những nơi có mật độ dân số cao và những điểm tập trung dân cư [như công nhiệp dệt, công nghiệp thực phẩm, đồ dùng gia đình, đồ chơi…] chất lượng của người lao động như trình độ học vấn, trình độ tay nghề và chuyên môn kĩ thuật cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và đáp ứng những thành tựu của khoa học và kỹ thuật đối với những xí nghiệp công nghiệp. Quy mô, cơ cấu và thu nhập của dân cư cũng ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu tiêu dùng. Nó cũng là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp. Khi tập quán và nhu cầu tiêu dùng thay đổi nó cũng ảnh hưởng đến sự chuyển hướng về quy mô và hướng chuyển hướng chuyên môn hóa các ngành va xí nghiệp công nghiệp, từ đó dẫn đến mở rộng hay thu hẹp không gian công nghiệp cũng như cơ cấu ngành của nó.
  5. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công nghiệp có ý nghĩa nhất định đối với việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nó có thể là tiền đề thuận lợi hay cản trở sự phát triển công nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng. Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp bao gồm hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, mạng lưới cung cấp điện, nước, các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở công nghiệp… có vai trò ngày càng quan trọng trong tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Sự tập trung cơ sở hạ tầng trên một lãnh thổ đã làm thay đổi vai trò của nhiều nhân tố phân bố công nghiệp, đem lại nhiều yếu tố mới trong bức tranh tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
  6. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ Tiến bộ khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng mới về sản xuất, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỉ trọng của chúng trong tổng thể toàn bộ ngành công nghiệp, làm cho việc sử dụng, khai thác tài nguyên và phân bố các ngành công nghiệp trở nên hợp lí hơn, có hiệu quả và kéo theo những thay đổi về quy luật phân bố sản xuất. Đồng thời nảy sinh những nhu cầu mới xuất hiện những ngành công nghiệp mới mở ra những triển vọng phát triển mới cho ngành công nghiệp trong tương lai.
  7. Đường lối, chính sách phát triển Đường lối, chính sách phát triển có ảnh hưởng trực tiếp, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển công nghiệp đặc biệt là tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Chính vì vậy trong quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp cần thiết phải có một đường lối chính sách phát triển đúng đắn, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển mạnh. Phù hợp với xu thế mở cửa hội nhập chúng ta đã xây dựng những ngành công nghiệp mũi nhọn dựa vào lợi thế so sánh như công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, công nghiệp nhẹ gia công xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, một số ngành sản xuất nhiên liệu cơ bản… Cơ cấu công nghiệp theo ngành và theo lãnh thổ đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. 2.2. Nguồn lực bên ngoài 2.2.1. Thị trường Thị trường bao gồm thị trường trong nước và thị trường quốc tế đóng vai trò như chiếc đòn bẩy đối với sự phát triển, phân bố và cả sự thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp. Nó có tác động mạnh mẽ đến việc lựa chọn vị trí xí nghiệp hướng chuyên môn hóa sản xuất. Sự phát triển công nghiệp ở bất kì quốc gia nào đều nhằm thỏa mãn nhu cầu trong nước và hội nhập vào thị trường quốc tế. Công nghiệp có thị trường tiêu thụ rất rộng lớn. Điều đó được thể hiện dưới hai khía cạnh. Công nghiệp một mặt, cung cấp tư liệu sản xuất, trang thiết bị cho tất cả các ngành kinh tế và mặt khác, đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng cho mọi tầng lớp nhân dân. Công nghiệp hiện đối mặt với thị trường đang ở trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế - xã hội. Sự phát triển về truyền thông đại chúng đã làm cho mọi thông tin cập nhật mau chóng được phổ cập tới toàn xã hội, trong đó có thông tin về tiêu thụ. Nó kích thích nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp hơn đối với công nghiệp. 2.2.2. Các xu thế kinh tế quốc tế, các mối quan hệ hợp tác liên vùng, quốc tế Các xu thế kinh tế quốc tế, các mối quan hệ hợp tác liên vùng, quốc tế có tác dụng thúc đẩy quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp diễn ra nhanh hay chậm. Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới cùng với những tiến bộ kỹ thuật phát triển như vũ bão, vấn đề hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu, đem lại lợi ích cho các bên đối tác. Đối với các nước, các vùng chậm phát triển, để giảm khoảng cách về trình độ phát triển và tránh tụt hậu, không thể không quan tâm đến sự hợp tác quốc tế và liên vùng. Hợp tác quốc tế và liên vùng được thể hiện qua một số lĩnh vực chủ yếu sau đây: - Hỗ trợ vốn đầu tư từ các nước, các vùng phát triển cho các nước, các vùng đang phát triển và chậm phát triển. Quá trình hợp tác đầu tư làm xuất hiện ở các nước, các vùng đang phát triển và chậm phát triển một số ngành công nghiệp mới, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất và mở mang các ngành nghề truyền thống. Điều đó dẫn đến sự thay đổi tổ chức lãnh thổ công nghiệp theo hai chiều tích cực và tiêu cực. - Chuyển giao kỹ thuật và công nghệ cũng là một trong những xu hướng quan trọng của sự hợp tác quốc tế và liên vùng. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại có ý nghĩa quyết định đến nhịp điệu phát triển kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, phương hướng sản xuất và sau đó là việc phân bố sản xuất, các hình thức tổ chức lãnh thổ cũng như bộ mặt kinh tế - xã hội của cả vùng hay quốc gia. - Chuyển giao kinh nghiệm tổ chức quản lý đến các nước, các vùng đang phát triển và chậm phát triển đã trở thành yêu cầu cấp thiết. Kinh nghiệm quản trị giỏi không chỉ giúp từng xí nghiệp làm ăn phát đạt mà còn mở ra cơ hội cho họ hợp tác chặt chẽ với nhau, tạo ra sự liên kết bền vững trong một hệ thống sản xuất kinh doanh thống nhất. Chính sự liên kết đó là tiền đề để hình hành các không gian công nghiệp cũng như các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. - Sự hỗ trợ từ bên ngoài về năng lượng, nguyên vật liệu có tác động thúc đẩy nhanh hơn quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Đối với các vùng thiếu năng lượng, nguyên vật liệu thì sự hỗ trợ từ bên ngoài là không thể thiếu được. Chính quá trình này đã ảnh hưởng, thậm chí quy định tổ chức lãnh thổ cụng nghiệp ở những vùng được hỗ trợ và mở ra một hướng phát triển hoàn toàn mới có hiệu quả thúc đẩy ngành công nghiệp nói riêng và ngành kinh tế toàn vùng nói chung. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp chịu ảnh hưởng của cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Trong đó, yếu tố quyết định đến sự hình thành và tổ chức lãnh thổ công nghiệp phải kể đến là các nguồn lực bên trong, các nguồn lực bên ngoài có vai trò thúc đẩy nhanh hơn quá trình này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, nguồn lực bên ngoài chi phối mạnh mẽ, thậm chí có thể có ý nghĩa quyết định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp. 3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp trên thế giới rất đa dạng và phong phú; lịch sử nghiên cứu các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đã có từ lâu, nhưng cho tới nay quan niệm về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp giữa các nước vẫn rất khác nhau. Dưới đây là quan niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở một số nước. 3.1. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Liên Xô và Đông Âu Việc nghiên cứu các hình thức tổ chức công nghiệp ở Liên Xô và Đông Âu trước đây được tiến hành từ khá sớm và tương đối sâu sắc với sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau đặc biệt là địa lý học. Mặc dù còn nhiều điểm chưa thống nhất và gây tranh cãi nhưng nhìn chung có thể tổng kết các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp chủ yếu ở đây từ thấp lên cao xét về trình độ bao gồm: 3.1.1. Điểm công nghiệp
  8. Khái niệm - Theo X. Xlavev [1977]: Điểm công nghiệp là lãnh thổ trên đó có một điểm dân cư với một, hay một nhóm xí nghiệp công nghiệp [thị trấn, thị tứ]. - Theo M. Ghenexki và K. Krưxter [1975]: Điểm công nghiệp là các lãnh thổ [thị trấn, thị tứ, trung tâm cụm xã] trên đó có sự hoạt động của một xí nghiệp công nghiệp. Như vậy, mặc dù hai quan niệm trên không hoàn toàn giống nhau nhưng khá thống nhất ở chỗ thực chất điểm công nghiệp là một hình thức đồng nhất với điểm dân cư có xí nghiệp công nghiệp. Do chỉ tồn tại một xí nghiệp công nghiệp duy nhất nên ở đây không có mối liên hệ sản xuất nhưng mỗi điểm công nghiệp có kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội với ý nghĩa nhất định. Nó cũng có quá trình phát sinh, phát triển và cấu trúc sản xuất riêng tuy còn ở mức sơ khai. - "Hạt nhân công nghiệp": Ngoài ra một số người lại đưa hình thức khác rộng hơn cho quan niệm này là “hạt nhân công nghiệp”. Nó bao gồm lãnh thổ của một điểm dân cư trên đó tập trung một số xí nghiệp công nghiệp có thể thuộc nhiều ngành khác nhau. Như vậy, khác với điểm công nghiệp, hạt nhân công nghiệp có sự tồn tại mối liên hệ sản xuất do có sự tồn tại của một vài xí nghiệp. Tuy nhiên các mối liên hệ này không thật chặt chẽ tới mức trong nhiều trường hợp hầu như không thấy giữa các xí nghiệp mà chỉ tạo tiền đề cho các mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp giữa chúng với nhau. Tiền đề đó là sự gắn bó về mặt lãnh thổ và mạng lưới giao thông, việc sử dụng các điều kiện hiện có và các điều kiện tiềm năng. Từ đó quá trình liên kết dần dần hình thành dẫn tới việc đẩy mạnh tạo ra cơ hội chuyển nó sang hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở cấp cao hơn. Có thể nói điểm công nghiệp và hạt nhân công nghiệp là hai hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đơn giản nhất. Sự khác biệt giữa hai hình thức này không nhiều lắm và để đơn giản hoá có thể gộp chúng lại hình thức “điểm công nghiệp”.
  9. Đặc điểm Với quan niệm trên thì điểm công nghiệp mang một số đặc trưng tiêu biểu sau đây: - Lãnh thổ nhỏ với một [hai] xí nghiệp, phân bố lẻ tẻ, phân tán. - Hầu như không có mối liên hệ sản xuất giữa các xí nghiệp. Các xí nghiệp có tính chất độc lập về kinh tế, có công nghệ sản xuất sản phẩm riêng. - Thường gắn với một điểm dân cư nào đó. Về mặt hình thức rất dễ nhầm lẫn giữa xí nghiệp công nghiệp với điểm công nghiệp nhưng về mặt bản chất thì không giống nhau. Nếu xí nghiệp công nghiệp là hình thức tổ chức sản xuất, là đơn vị cơ sở của phân công lao động về mặt địa lí thì điểm công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Về quy mô của điểm công nghiệp lớn nhỏ tuỳ thuộc vào quy mô của xí nghiệp công nghiệp phân bố ở đây. Do tính chất và đặc điểm kinh tế - kĩ thuật của các ngành công nghiệp có sự khác nhau mà quy mô của các xí nghiệp cũng khác nhau. Có xí nghiệp chỉ có vài chục hoặc vài trăm công nhân [như chế biến nông sản, lắp ráp và sửa chữa thiết bị...] và được bố trí gọn trong một xưởng sản xuất

Hình 1: Điểm công nghiệp nhưng cũng có xí nghiệp thu hút hàng nghìn công nhân gồm nhiều công trình, nhà xưởng, diện tích tương đối lớn [xí nghiệp khai thác khoáng sản...]. Hiện nay do sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật - công nghệ số lượng các xí nghiệp có quy mô tăng lên nhanh chóng ở tất cả các ngành công nghiệp.

  1. Ý nghĩa Điểm công nghiệp là hình thức đơn giản và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là những nước có trình độ phát triển kinh tế thấp bởi vì điểm công nghiệp theo kiểu đơn lẻ này cũng có những mặt tích cực nhất định. Nó có tính cơ động, dễ đối phó với những sự cố và thay đổi trang thiết bị, không bị ràng buộc và ảnh hưởng của các xí nghiệp khác, đặc biệt thuận cho việc thay đổi mặ hàng trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những mặt hạn chế lại rất nhiều. Đó là việc đầu tư khá tốn kém cho cơ sở hạ tầng, các chất phế thải bị lãng phí do không tận dụng được, các mối liên hệ [sản xuất, kinh tế, kĩ thuật...] với các xí nghiệp khác hầu như thiếu vắng và vì vậy, hiệu quả kinh tế thường thấp. 3.1.2. Cụm công nghiệp
  2. Khái niệm Việc nghiên cứu cụm công nghiệp như là hệ thống sản xuất, có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Đây cũng là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp phức tạp, vì vậy chưa có sự thống nhất về quan niệm. Dưới từng góc độ chuyên môn các nhà khoa học có cách nhìn nhận khác nhau. - Các nhà thiết kế xây dựng: coi cụm công nghiệp là một nhóm xí nghiệp có chung cơ sở sản xuất, cơ sở dịch vụ, các công trình và mạng lưới kĩ thuật với hệ thống phục vụ thống nhất cho công nhân. Cụm công nghiệp ra dời chủ yếu phụ thuộc vào các công trường xây dựng hiện có nên trong phạm vi một thành phố quy mô cỡ trung bình có thể tồn tại vài cụm công nghiệp không nhất thiết phải có nhiều xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau. - Dưới góc độ các nhà quy hoạch vùng: cụm công nghiệp là sự tập trung lãnh thổ các xí nghiệp và các điểm dân cư với dòng người đi lại nhộn nhịp hàng ngày, giữa các điểm đó nói với nhau bằng mạng lưới giao thông. - Hội đồng nghiên cứu lực lượng sản xuất[SOPS] của Liên Xô trước đây [1966] coi cụm công nghiệp là thể tổng hợp sản xuất được phân bố gọn trên lãnh thổ của một trung tâm [hai, ba hay nhiều điểm quần cư kiểu thành phố] với sự phát triển của tất cả các ngành sản xuất đã được hình thành trong đó, nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, giảm chi phí hoạt động khi sử dụng chung các công trình kĩ thuật, các cơ sở bổ trợ và phục vụ, các cơ sở công nghiệp, hệ thống điện, cấp nước, giao thông... - Theo X.Xlavev [1977]: Dựa vào điều kiện cụ thể của Bungari, ông cho rằng cụm công nghiệp là một kết hợp sản xuất – lãnh thổ, ra đời trên cơ sở các xí nghiệp công nghiệp nằm ở một hoặc một số điểm dân cư. Trong số các điểm ấy có một điểm lớn giữ vai trò hạt nhân, các điểm còn lại giữ vài trò vệ tinh. Ngoài ra các điểm dân cư gắn bó với nhau thông qua việc cùng chung lãnh thổ và thực hiện các mối liên hệ về sử dụng nguồn tài nguyên của địa phương. Trong các điểm dân sư còn bao gồm cả các cơ sở phục vụ và quản lí nền kinh tế, hệ thống nhà ở và các bộ phận khác của kết cấu hạ tầng. - A.E.Probxt [1962] cho rằng cụm công nghiệp là thể tổng hợp sản xuất - lãnh thổ được giới hạn bởi một điểm hoặc một trung tâm địa lí. Hạt nhân tạo nên cụm công nghiệp có thể là các nhà máy liên hợp, hoặc một số xí nghiệp cùng loại hay khác loại. Ngoài ra quan niệm về cụm công nghiệp còn được đề cập đến trong nhiều công trình của các nhà khoa học như: V.A.Ađamchuc và V.I.Đôvônxki[1968], A.I.Đêmênev [1970]...Trong đó lí giải của A.T.Khơrutsov [1979] được công nhận vì đã nêu được bản chất của cụm công nghiệp. - A.T.Khorutsov [1979]: Cụm công nghiệp là một kết hợp sản xuất - lãnh thổ mang tính chất tổng hợp. Do nằm gần nhau, các xí nghiệp thống nhất với nhau bằng việc có chung vị trí địa lý, giao thông, hệ thống kết cấu hạ tầng và các điểm dân cư nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động, vật chất sẵn có trên lãnh thổ. Quan điểm của A.T.Khorutsov được coi là có sức thuyết phục hơn cả vì ông đã nêu được bản chất của hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp này.
  3. Đặc điểm: - Theo A.T.Khơrutsov [1979] cụm công nghiệp có các đặc điểm sau: + Mức độ tổng hợp và đặc điểm chuyên môn hoá của kết hợp sản xuất - lãnh thổ. + Sự thống nhất về vị trí địa lí và các mối liên hệ về giao thông vận tải giữa các xí nghiệp. + Cùng chung kết cấu hạ tầng, kể cả dịch vụ sản xuất. + Có chung hệ thống quần cư. + Hiệu quả kinh tế. - Đến năm 1983, E.B.Alave cho rằng cụm công nghiệp có 4 dấu hiệu sau: + Sự ưu thế của nó trong cấu trúc ngành. + Sự phân bố của các xí nghiệp công nghiệp có quan hệ với nhau trên một lãnh thổ hạn chế. + Khối lượng sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo cho sự hoạt động tối ưu của các xí nghiệp phụ và bổ trợ. + Sự thống nhất của các điểm dân cư trong khu vực được cho phép việc đi lại lao động hàng ngày. Như vậy, để xác định cụm công nghiệp về cơ bản cần căn cứ vào ít nhất 2 dấu hiệu quan trọng hàng đầu sau: - Sự thống nhất liên hệ chặt chẽ giữa các xí nghiệp, các điểm dân cư, mạng lưới giao thông... trên một lãnh thổ nhất định. Nếu chỉ có riêng các xí nghiệp công nghiệp tồn tại độc lập trên một lãnh thổ thì chưa thể coi đó là cụm công nghiệp được. Giữa sản xuất với quần cư, giao thông phải có sự thống nhất và liên hệ với nhau mặc dù mối liên hệ qua lại giữa các xí nghiệp công nghiệp giữ vị trí then chốt. - Tính gọn của lãnh thổ [bao gồm cả lãnh thổ dự trữ cho việc phát triển của cụm công nghiệp tương lai]. Điều này nghĩa là phải có sự tập trung cao độ của sản xuất trên một lãnh thổ, hoặc số vốn đầu tư lớn trên một diện tích, sự tập trung của kết cấu hạ tầng và sự thống nhất của các xí nghiệp trong quá trình sử dụng các nguồn năng lượng - nguyên liệu, khả năng đi lại nhanh chóng từ nơi này sang nơi khác trong phạm vi của cụm công nghiệp và mối liên hệ sản xuất giữa các xí nghiệp, nhất là việc cùng sử dụng dạng nguyên liệu nói chung và phế liệu nói riêng.
  4. Quy mô của cụm công nghiệp có nhiều quan niệm khác nhau: Với các quan niệm về dấu hiệu xác định các cụm công nghiệp là không giống nhau thì về quy mô của cụm công nghiệp cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Một số nhà khoa học Xô Viết và Bungari như E.D.Zaxtavnui [1969], A.T.Khơrutxov, Kh.Marinov [1968]... cho rằng về mặt lãnh thổ cụm công nghiệp có thể rộng từ 300 đến 3000km2. Khoảng cách xa nhất của các xí nghiệp đến trung tâm chính của cụm là từ 50 đến 80km. Các xí nghiệp trên lãnh thổ đó thống nhất với nhau bằng việc cùng chung cơ sở nguyên liệu hoặc chuyên môn hoá sản xuất. Các nhà quy hoạch vùng cho rằng quy mô cụm công nghiệp nhỏ hơn với diện tích từ 200 - 3000km2 và khoảng cách xa nhất của các xí nghiệp đến trung tâm chính của cụm là khoảng 30km. Tuy nhiên quy mô cụm công nghiệp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước và khi xác định ranh giới cần chú ý đến mối liên hệ giữa các xí nghiệp ở khu vực hạt nhân và ở các điểm vệ tinh, đến việc sử dụng nguồn lao động trong cụm và cả của việc phân bố kết hợp các xí nghiệp công nghiệp.
  5. Phân loại Cụm công nghiệp được phân loại theo những dấu hiệu cơ bản sau: - Theo hình thái: Có cụm một trung tâm, cụm nhiều trung tâm - Theo chức năng và phát sinh: + Theo chức năng: • Có cụm công nghiệp khai thác. • Cụm công nghiệp chế biến. • Cụm công nghiệp hỗn hợp. + Theo mức độ phát triển: • Cụm công nghiệp đã hình thành. • Cụm công nghiệp mới hình thành. • Cụm công nghiệp đang hình thành. + Theo khối lượng sản phẩm: • Cụm công nghiệp cực lớn • Cụm lớn. • Cụm tương đối lớn. + Theo điều kiện hình thành: • Cụm công nghiệp dựa vào nguồn nguyên, nhiên liệu, năng lượng. • Cụm công nghiệp dựa vào việc đảm bảo nguồn lao động và ưu thế vị trí địa lý, giao thông. • Cụm công nghiệp dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động. Có thể nói việc nghiên cứu cụm công nghiệp như là một hệ thống sản xuất có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp. So với điểm công nghiệp thì cụm công nghiệp là hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở trình độ cao hơn thể hiện không chỉ ở quy mô mà còn trong mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế kĩ thuật giữa các xí nghiệp trong nó. Vì vậy, hiệu quả kinh tế cao hơn và tận dụng được thế mạnh của toàn bộ các xí nghiệp. 3.1.3. Khu công nghiệp
  6. Khái niệm Khu công nghiệp, theo quan niệm của địa lí Xô Viết là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp, nhưng chưa thật sự thống nhất về nội dung và những đặc trưng chủ yếu. - Các nhà khoa học của trường Đại học Tổng hợp Matxcơva đưa ra một số quan niệm khác nhau. Có thể dẫn ra một vài định nghĩa cụ thể: Khu công nghiệp là sự kết hợp theo lãnh thổ của những điểm công nghiệp ở gần nhau được quy tụ về một hay một vài trung tâm công nghiệp và bị chi phối bởi các nhân tố phân bố công nghiệp đồng nhất. Ý kiến khác lại cho rằng khu công nghiệp là sự tập hợp theo lãnh thổ của những điểm công nghiệp, tạo thành sự thống nhất kinh tế với nền tảng là các ngành công nghiệp lớn có ý nghĩa toàn quốc và các ngành phục vụ có liên quan [Lu.G.Xautxkin, 1981]. Theo Xêmênov [1981] thì khu công nghiệp là một đối tượng sản xuất phức tạp kết hợp hàng loạt nhân tố kinh tế, xã hội, tự nhiên có quan hệ với nhau, nhưng khác nhau về loại hình và mục đích. Nhìn chung các quan niệm nêu trên dều không thật rõ ràng và cụ thể. - Quan niệm của một số nhà khoa học thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô trước đây tương đối rõ hơn Khu công nghiệp bao gồm một nhóm các trung tâm công nghiệp phân bố gần nhau và kết hợp với nhau bằng việc cùng chung chuyên môn hoá, mạng lưới vận tải thống nhất và những mối liên hệ sản xuất chặt chẽ [1981].
  7. Đặc điểm - Các khu công nghiệp được xác định dựa trên 3 tiêu chuẩn sau: + Khu công nghiệp phải gồm một số trung tâm công nghiệp từ đây có thể nhận thấy rằng, quy mô lãnh thổ của nó rất lớn mà ít nhất là có 2 trung tâm công nghiệp trở lên. Mỗi trung tâm lại gồm một số cụm công nghiệp gắn bó với một thành phố. + Các trung tâm công nghiệp phải phân bố gần nhau và gắn bó với nhau trên cơ sở cùng hướng chuyên môn hoá. Tất nhiên trong tiêu chuẩn này cũng còn nhiều điểm không rõ ràng. + Có mạng lưới vận tải thống nhất và các mối liên hệ sản xuất chặt chẽ. Các mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các trung tâm tạo thành một khu công nghiệp bao gồm: • Liên hệ trực tiếp về mặt phối hợp sản xuất, cùng tham gia vào quá trình tạo ra một loại sản phẩm, hoặc về mặt chế biến phế liệu của nhau, hay điều phối nhân lực cho nhau. • Liên hệ gián tiếp về mặt sử dụng chung một nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, động lực, mạng lưới vận tải... Tất nhiên quan niệm về khu công nghiệp của các nhà khoa học Xô Viết khác xa với quan niệm của chúng ta hiện nay mà sẽ được trình bày cụ thể hơn ở các phần sau. 3.1.4. Trung tâm công nghiệp
  8. Khái niệm Trung tâm công nghiệp là hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cao hơn điểm công nghiệp. Thông thường, trong những điều kiện thuận lợi các điểm công nghiệp có những biến đổi về chất và chuyển dần thành một kết hợp sản xuất với một lãnh thổ khác. Đó là trung tâm công nghiệp. - Theo X. Xlavev [1977]: Trung tâm công nghiệp thường là điểm dân cư tương đối lớn [thành phố], trên đó tập trung các xí nghiệp của một số ngành công nghiệp. - Một số khác lại cho rằng: Trung tâm công nghiệp là sự tập trung một số xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau vào một điểm dân cư. Chính điểm dân cư đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành trung tâm công nghiệp.
  9. Đặc điểm - Dấu hiệu: Trung tâm công nghiệp được đặc trưng bởi hai dấu hiệu cơ bản: + Trung tâm công nghiệp cao hơn hẳn điểm công nghiệp về chất. Dấu hiệu chủ yếu và mới về chất của trung tâm công nghiệp thể hiện ở trình độ cao hơn về cường độ và phạm vi của các mối liên hệ sản xuất - kĩ thuật, kinh tế và quy trình công nghệ giữa các xí nghiệp. Đây được coi là dấu hiệu cơ bản nhất và chủ yếu nhất về chất.

Hình 2: Trung tâm công nghiệp + Sự thống nhất về mặt lãnh thổ [dấu hiệu thứ yếu và chỉ có ý nghĩa tương đối]. Như vậy, trung tâm công nghiệp được hiểu là toàn bộ sự kết hợp các điểm [hạt nhân] công nghiệp có mối liên hệ và được hình thành một cách khách quan trên phạm vi một lãnh thổ nhất định với các điều kiện tự nhiên, kinh tế và vị trí địa lí riêng của nó. Từ dấu hiệu và định nghĩa trên ta đi đến bản chất và đặc điểm của trung tâm công nghiệp. - Đặc điểm: + Trung tâm công nghiệp đồng thời cũng là các đô thị vừa và lớn với hoạt động công nghiệp là chính. Về nguyên tắc, trung tâm công nghiệp bao gồm các điểm dân cư có quy mô trung bình và lớn. Ở Việt Nam, trung tâm công nghiệp đồng thời là các trung tâm hành chính của tỉnh và là bộ phận của vùng kinh tế. Sự gần gũi về mặt lãnh thổ của hai hay nhiều trung tâm sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của hình thức lãnh thổ cao hơn là vùng công nghiệp. Các trung tâm công nghiệp có quá trình hình thành và phát triển riêng nhưng có đặc điểm chung là không ngừng hoàn thiện. + Trung tâm công nghiệp bao gồm nhiều xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau tạo nên cơ cấu ngành. Cơ cấu ngành của trung tâm công nghiệp có thể đơn giản [ít ngành] hoặc phức tạp [đa ngành], phụ thuộc chủ yếu vào sự thu hút các ngành của trung tâm. Các xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp khác nhau có mối liên hệ mật thiết với nhau về kinh tế, kĩ thuật, sản xuất. Như vậy, trung tâm công nghiệp là sự tập trung một số xí nghiệp thuộc các ngành khác nhau vào một điểm dân cư nên các xí nghiệp công nghiệp có vai trò to lớn đối với sự hình thành trung tâm công nghiệp. Theo A.E.Probxt [1962], các nhóm xí nghiệp tạo thành trung tâm công nghiệp bao gồm 2 nhóm: - Nhóm xí nghiệp nòng cốt: là bộ khung của trung tâm công nghiệp, thường bao gồm một số xí nghiệp lớn và cũng có thể là một một xí nghiệp liên hợp. Hướng chuyên môn hoá của trung tâm là do xí nghiệp này quyết định. Các xí nghiệp lớn giữ vai trò quyết định bộ mặt của trung tâm công nghiệp được hình thành và phát triển dựa trên cơ sở các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động hoặc dựa vào lực lượng lao động dồi dào, vị trí địa lí thuận lợi... - Nhóm các xí nghiệp bổ trợ: có mối liên hệ với nhóm xí nghiệp nòng cốt nhưng không phải là mối liên hệ chặt chẽ về kĩ thuật - công nghệ. Nhìn chung, các xí nghiệp bổ trợ được chia làm 3 nhóm: + Nhóm 1: gồm các xí nghiệp tiêu thụ trực tiếp các thành phẩm hoặc phế thải của xí nghiệp nòng cốt. Ví dụ các nhà máy cơ khí sử dụng thép của xí nghiệp gang thép, xí nghiệp sản xuất bánh kẹo sử dụng đường của nhà máy mía đường [thành phẩm] hoặc xí nghiệp bột giấy dùng bã mía của nhà máy đường, nhà máy xi măng tận dụng than xỉ của lò cao hay của nhà máy nhiệt điện [phế thải]. + Nhóm 2: gồm các xí nghiệp có nhiệm vụ cung cấp các tư liệu sản xuất cho xí nghiệp nòng cốt và bổ trợ cho các xí nghiệp của nhóm 1. Sự phân bố của chúng phụ thuộc vào sự có mặt của nhóm xí nghiệp nòng cốt. Các xí nghiệp thuộc nhóm này bao gồm xí nghiệp cung cấp nhiên liệu, động lực, vật liệu xây dựng, sản xuất và sửa chữa thiết bị máy móc... ví dụ: các xí nghiệp khai thác quặng thường ở gần trung tâm, các xí nghiệp sản xuất và sửa chữa thiết bị dệt thường ở gần nhà máy liên hợp xí nghiệp gạch chịu lửa cung cấp cho lò cao của nhà máy gạch. + Nhóm 3: gồm các xí nghiệp công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của dân cư. Đó là các xí nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng... Ngoài ra còn có các xí nghiệp [không thuộc ngành công nghiệp] đáp ứng nhu cầu của trung tâm[ xí nghiệp nông nghiệp ngoại thành cung cấp thực phẩm tươi sống, bưu điện, thông tin liên lạc, các cơ sơ thuộc lĩnh vực phi sản xuất vật chất như: chợ, bệnh viện, trường học...].

  1. Phân loại Có thể nói về quy mô thì trung tâm công nghiệp lớn hơn cụm công nghiệp, nhưng về các mối liên hệ quản lí và sản xuất lại kém chặt chẽ hơn so với cụm công nghiệp. Bên cạnh đó, các trung tâm công nghiệp có quá trình hình thành và phát triển riêng. Các trung tâm công nghiệp rất đa dạng vì vậy việc phân cấp, phân loại các trung tâm công nghiệp cần dựa trên một số tiêu chí nhất định. Dưới đây là sơ đồ phân loại các trung tâm công nghiệp theo một số tiêu chí:

Hình 3. Phân loại các trung tâm công nghiệp Ngoài ra, dựa vào sự khác biệt về các đặc trưng định lượng và về mối liên hệ sản xuất - lãnh thổ của các xí nghiệp, có thể phân trung tâm công nghiệp thành 3 cấp: - Trung tâm cấp 1: Có đặc trưng là sự có mặt thường xuyên của các mối liên hệ sản xuất, kĩ thuật với cường độ mạnh. Ở đây đã hình thành các chu trình sản xuất nhất định. Chuyên môn hoá sản xuất của trung tâm do tổng thể các ngành hiện có quyết định, trong đó phải kể đến vai trò của các xí nghiệp nòng cốt [thường thuộc các ngành cơ khí, luyện kim, hoá chất, dệt...]. - Trung tâm cấp 2: Các mối liên hệ diễn ra tương đối mạnh và phần lớn mang tính chất khoa học công nghệ. Chuyên môn hoá bị chi phối bởi các ngành trong trung tâm, trước hết là các ngành then chốt. - Trung tâm cấp 3: Có mức độ tập trung hóa thấp nhất. Nét tiêu biểu là các mối liên hệ cơ bản mang tính chất sản xuất - kỹ thuật và kinh tế nhưng thiếu sự ổn định theo hướng sản xuất và thời gian. Chuyên môn hoá phụ thuộc vào số ít ngành công nghiệp, trong đó chỉ một hoặc hai ngành chiếm ưu thế. 3.1.5. Vùng công nghiệp

  1. Khái niệm Vùng công nghiệp là hình thức tổ chức lãnh thổ cao nhất, xuất hiện sớm trong địa lý Xô Viết. Khái niệm này được xem như sự tác động qua lại phức tạp và vùng phân bố trên một lãnh thổ của các xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp khác nhau. Theo các nhà khoa học thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô trước đây [1987], vùng công nghiệp bao gồm một lãnh thổ tương đối rộng lớn, có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lí, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, về kinh tế - xã hội, có khả năng bố trí tập trung công nghiệp nhằm đạt hiệu quả và tốc độ tăng trưởng cao, thúc đẩy, đảm bảo sự phát triển của các vùng khác và của cả nước. Như vậy, vùng công nghiệp là một khái niệm tương đối rộng. Việc xác định quy mô và ranh giới của nó khá linh hoạt.
  2. Đặc điểm Quá trình tạo vùng công nghiệp có hai đặc điểm cơ bản sau: - Có sự tách biệt các ngành về mặt lãnh thổ: Do phụ thuộc vào tác động của nhiều nhân tố,mỗi ngành được phân bố trên một không gian nhất định. Hơn nữa, do chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc, hoạt động công nghiệp lại được chia nhỏ ra theo các giai đoạn của quy trình công nghệ. Các xí nghiệp chuyên sơ chế nguyên liệu ban đầu và sản xuất bán thành phẩm thường bị hút về các vùng nguyên liệu. Ngược lại, các xí nghiệp hoàn thành nốt các

Hình 4. Vùng công nghiệp giai đoạn cuối cùng của quy trình công nghệ được phân bố linh hoạt hơn, nhưng thường có xu thế kéo về vùng tiêu thụ. - Trong phạm vi lãnh thổ nào đó có sự tác động qua lại của các xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp khác nhau. Sự kết hợp không gian của các ngành tác động qua lại với nhau và các thành phần của chúng là dấu hiệu điển hình của việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp hiện nay. Vùng công nghiệp có một số đặc điểm chủ yếu sau đây: - Là bộ phận lãnh thổ lớn nhất trong số các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp nhưng ranh giới không mang tính pháp lí. - Có thể bao gồm tất cả các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp từ thấp đến cao [hoặc có thể chứa đựng một vài hình thức nào đó] và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về sản xuất, công nghệ, kinh tế... - Có một số nhân tố tạo vùng tương đồng [sử dụng chung một vài loại tài nguyên tạo nên tính chất tương đối giống nhau của các ngành công nghiệp, cùng có những thuận lợi về vị trí địa lí và các nguồn lực khác]. + Có một hay vài ngành công nghiệp chủ đạo tạo nên hướng chuyên môn hoá của vùng, trong đó có hạt nhân tạo vùng và thường là trung tâm công nghiệp lớn. Để hỗ trợ cho các ngành chuyên môn hoá có các ngành bổ trợ và phục vụ. + Sản xuất mang tính chất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu của thị trường ở trong và ngoài vùng, kể cả thị trường quốc tế. Như vậy, vùng công nghiệp mang một số đặc trưng sau: - Có không gian rộng lớn. Ở đây có thể gồm nhiều khu công nghiệp, trung tâm công nghiệp, cụm công nghiệp độc lập. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp này không nhất thiết phải gần nhau mà có thể xa nhau, có mối liên hệ hoặc không có mối liên hệ với nhau. - Có một số nhân tố đồng nhất trong quá trình hình thành vùng công nghiệp, bao gồm: + Sử dụng chung một [hoặc một vài] loại tài nguyên, tạo nên tính chất tương đối giống nhau của các ngành công nghiệp. Thí dụ, trên cơ sở các loại khoáng sản [như: than, sắt, đồng...] hình thành các ngành công nghiệp nặng [như: luyện kim đen, luyện kim màu..] và từ đó xuất hiện vùng công nghiệp nặng. + Cùng có vị trí địa lí thuận lợi. Các xí nghiệp tập trung trong vùng công nghiệp chủ yếu gắn với đầu mối giao thông lớn chẳng hạn. Trước đây, vùng công nghiệp trung tâm [gồm Matxcơva và phụ cận] được hình thành nhờ vào đầu mối giao thông lớn nhất cả nước. + Sử dụng nhiều lao động, gắn với các khu vực tập trung dân cư, đồng thời cũng là vùng tiêu thụ lớn. Tóm lại, vùng công nghiệp là một khái niệm tương đối động. Việc xác định quy mô, ranh giới của nó khá linh hoạt tuỳ theo việc nhấn mạnh tính đồng nhất nào đó trong quá trình hình thành.

  1. Phân loại Người ta phân vùng công nghiệp thành các loại sau: - Vùng công nghiệp ngành: Cơ chế hình thành của nó thể hiện ở chỗ mỗi ngành công nghiệp lựa chọn cho mình một phần lãnh thổ tốt nhất về các nguồn lực [tự nhiên, kinh tế, xã hội…] cho sự phát triển của ngành đó. Các xí nghiệp thuộc ngành công nghiệp khai khoáng thường hướng về nguồn nguyên, nhiên liệu, năng lượng. Việc định vị những xí nghiệp này phụ thuộc vào sự phân bố nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, công việc trên liên quan với sự lựa chọn các cơ sở nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng có hiệu quả nhất. Ngoài ra còn phải xác định quy mô và trình tự sản xuất sao cho thoả mãn các yêu cầu hiện có đồng thời tạo ra tiền đề để tổ chức kết hợp giữa công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. Trong khi các xí nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến lại phức tạp hơn nhiều vì chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Như vậy vùng công nghiệp ngành thực chất là tập hợp về lãnh thổ của các xí nghiệp cùng loại. Các vùng công nghiệp ngành thường gặp là vùng khai thác than, dầu khí hoặc các vùng luyện kim, hoá chất… Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Thậm chí một số người còn tỏ ra hoài nghi về sự tồn tại của nó. Họ quan niệm rằng không có vùng ngành dưới dạng thuần tuý và đề nghị nên sử dụng thuật ngữ "các cơ sở sản xuất ngành" được hiểu như các xí nghiệp sản xuất riêng biệt hoặc các nhóm lãnh thổ của các xí nghiệp, các cơ sở này có thể là thể tổng hợp công nghiệp hoàn chỉnh và cũng có thể là thể tổng hợp công nghiệp không hoàn chỉnh. - Vùng công nghiệp tổng hợp: Trong thực tế, trong một phạm vi lãnh thổ nhất định có thể có những điều kiện thuận lợi cho việc phân bố các xí nghiệp không chỉ một ngành mà một số ngành công nghiệp. Về mặt lý thuyết các vùng công nghiệp có thể chồng chéo lên nhau trở thành vùng công nghiệp tổng hợp [tuy nhiên không phải vùng công nghiệp tổng hợp là tổng hợp của các vùng ngành] mà là một vùng hoàn toàn mới về chất. Như vậy vùng công nghiệp tổng hợp là một kết hợp sản xuất lãnh thổ, ra đời trên cơ sở các thể tổng hợp hoặc các nhóm ngành hay cả hai hình thức này, với chuyên môn hoá và cấu trúc sản xuất rõ rệt. Các vùng công nghiệp chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Đặc biệt việc phân chia và xác định ranh giới của chúng hết sức phức tạp. Điều này thể hiện cụ thể ở một số đặc điểm sau: - Rất khó xác định ranh giới của vùng công nghiệp ở những lãnh thổ có mật độ công nghiệp phát triển cao. - Các vùng công nghiệp không có ranh giới giáp nhau. Chúng thường là các khu phân bố công nghiệp tách rời nhau về mặt không gian. - Các vùng công nghiệp không phải lúc nào cũng nằm gọn trong hệ thống các vùng kinh tế các cấp. Các vùng công nghiệp khác nhau bởi nhiều tiêu chí [quy mô sản xuất và lãnh thổ, thời gian và điều kiện hình thành, chuyên môn hóa và cấu trúc sản xuất, các mối liên hệ nội ngoại vùng, các yếu tố tạo vùng…]. - Theo một số nhà địa lí kinh tế Xô Viết, ứng với từng dấu hiệu trên có thể chia các vùng công nghiệp thành các nhóm riêng lẻ sau đây: + Các vùng công nghiệp lớn, trung bình và nhỏ. + Các vùng công nghiệp phát triển sớm, các vùng công nghiệp mới hình thành và các vùng công nghiệp đang hình thành. + Các vùng công nghiệp thừa và các vùng thiếu nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng. + Các vùng đủ lao động và vùng thiếu lao động. + Các vùng có chuyên môn hóa và cơ cấu sản xuất phức tạp, các vùng có chuyên môn hóa và cơ cấu sản xuất đơn giản. + Các vùng có ưu thế về một ngành [nhóm ngành] và các vùng hỗn hợp. + Các vùng có mối liên hệ phát triển và các vùng có mối liên hệ kém phát triển. - Kết hợp các tiêu chí lại với nhau, có thể chia thành ba nhóm vùng công nghiệp: + Các vùng phát triển trên cơ sở công nghiệp khai thác [thường ở vùng lãnh thổ mới được khai phá]. + Các vùng phát triển trên cơ sở công nghiệp chế biến [thường được phát triển trên lãnh thổ khai phá từ lâu]. + Các vùng công nghiệp phát triển trên cơ sở công trình về năng lượng và nguồn nước [thuỷ điện, nước sạch…]. - Theo một số người khác, dựa vào dấu hiệu hoạt động và mức độ phát triển có thể phân các vùng công nghiệp thành 2 nhóm: + Vùng công nghiệp phát triển. + Vùng công nghiệp tiềm năng. - Để tiến tới sơ đồ phân kiểu, trước hết cần phân nhóm các vùng theo sự tổng hợp các dấu hiệu sau đây đóng vai trò quyết định: + Phát sinh [các điều kiện tiền đề và giai đoạn tạo vùng]. + Chức năng [chuyên môn hoá sản xuất]. + Cấu trúc [đặc điểm kết hợp của các thành phần]. Từ việc tổng hợp các dấu hiệu trên, A.T. Khơrutsov [ 1979] đã đưa ra kiểu vùng công nghiệp của Liên Xô [cũ] dưới đây: - Các vùng công nghiệp cũ không đủ nguồn nguyên nhiên liệu, đã ra đời nhờ vào ưu thế của vị trí địa lý, nguồn lao động và chuyên môn hoá công nghiệp khai thác và chế biến. - Các vùng công nghiệp cũ có đủ nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, lao động được hình thành nhờ vào việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, chuyên môn hoá công nghiệp khai thác và chế biến. - Các vùng công nghiệp cũ thiếu nguyên liệu, thừa nhiên liệu, năng lượng, đủ lao động xuất hiện do sử dụng tài nguyên thiên nhiên chuyên môn hoá công nghiệp khai thác và chế biến. - Các vùng công nghiệp mới thiếu nguồn nguyên liệu hoặc nhiên liệu, năng lượng được phát triển nhờ ưu thế của vị trí địa lý, nguồn lao động và nguyên liệu nông nghiệp có chuyên môn hoá công nghiệp chế biến. - Các vùng công nghiệp mới đủ nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, đủ lao động chuyên môn hoá công nghiệp khai thác và chế biến. - Các vùng công nghiệp mới có đủ nguyên liệu hoặc nhiên liệu, năng lượng, nhưng lại thiếu lao động với chuyên môn hoá chủ yếu là công nghiệp khai thác. - Các vùng công nghiệp mới thừa nguyên nhiên liệu, năng lượng nhưng thiếu lao động với chuyên môn hoá công nghiệp khai thác và chế biến. - Các vùng công nghiệp mới khai thác rất thừa nguyên nhiên liệu hoặc nhiên liệu nhưng rất thiếu lao động với việc hình thành các kết hợp sản xuất lãnh thổ dựa vào công nghiệp khai thác. 3.2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở phương Tây Là cái nôi ra đời của ngành công nghiệp và có trình độ phát triển công nghiệp cao nhất hiện nay, ở các nước phương Tây đã sớm xuất hiện các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp và chú trọng khai thác triệt để các lãnh thổ công nghiệp theo chiều sâu.Từ hình thức sơ khai là các điểm công nghiệp dệt ở nước Anh, với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp ngày càng phong phú thì các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đã tiến lên trình độ cao hơn. Đó là sự ra đời của các trung tâm công nghiệp, dải công nghiệp, vùng công nghiệp và đặc biệt là khu công nghiệp. Tuy nhiên về cơ bản hiện nay các nước này chú trọng nghiên cứu nhiều hơn đến các hình thức tổ chức sản xuất nhiều hơn là tổ chức lãnh thổ. Khác với trường phái địa lý Xô Viết, các nhà khoa học phương Tây không đưa ra những định nghĩa có tính chất hàn lâm, mà đi thẳng vào một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp gắn với thực tiễn và nhấn mạnh nhiều đến quan niệm, nội dung cũng như quá trình hình thành khu công nghiệp. Khu công nghiệp đã ra đời và phát triển ở các nước tư bản vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Với lí thuyết về “khu vị luận công nghiệp”, Weber [1909] cho rằng việc phân bố và hình thành khu công nghiệp phải dựa trên nguyên tắc cực đại hoá lợi nhuận, cực tiểu hoá chi phí. Sự tập trung các xí nghiệp vào một khu vực phụ thuộc 3 yếu tố: chi phí vận tải thấp nhất, giá lao động rẻ nhất, và có xí nghiệp sử dụng phế liệu. Theo quan niệm của các nhà khoa học phương Tây, khu công nghiệp là một khu vực đất đai có ranh giới nhất định và có quyền sở hữu rõ ràng nhằm trước hết xây dựng kết cấu hạ tầng [đường xá, điện nước, dầu khí, thông tin liên lạc, rồi sau đó xây dựng các xí nghiệp để bán. Đặc điểm của khu công nghiệp: - Tập trung tương đối nhiều xí nghiệp công nghiệp trên một khu vực có ranh giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội. - Các xí nghiệp nằm trong khu công nghiệp được hưởng quy chế ưu đãi riêng, khác với xí nghiệp phân bố ngoài khu công nghiệp. - Có ban quản lí thống nhất để thực hiện quy chế quản lí. - Có sự phân cấp về quản lí và tổ chức sản xuất. Về phía các xí nghiệp, khả năng hợp tác sản xuất phụ thuộc vào việc liên kết với nhau của từng doanh nghiệp. Việc quản lí của Nhà nước được thể hiện ở chỗ nhà nước chỉ quy định những ngành [hay loại xí nghiệp] được khuyến khích phát triển và những ngành [hay loại xí nghiệp] không đặt trong khu công nghiệp vì lí do môi trường sinh thái hoặc an ninh, quốc phòng. Các khu công nghiệp rất khác nhau về tính chất và loại hình, để thuận lợi cho việc phân loại các khu công nghiệp, có thể dựa vào một số tiêu chí sau: + Về vị trí địa lí: có khu công nghiệp ở trung du hay vùng núi, các khu công nghiệp ven biển, các khu công nghiệp dọc theo quốc lộ, các khu công nghiệp nằm trong các thành phố lớn. + Về tính chất chuyên môn hoá, cơ cấu và đặc điểm sản xuất, có thể chia ra các khu công nghiệp chuyên môn hoá và các khu công nghiệp tổng hợp hoặc các khu công nghiệp sản xuất chủ yếu để xuất khẩu [các khu chế xuất - là một khu chuyên sản xuất phần lớn để xuất khẩu, có ranh giới hành chính rõ rệt, được hưởng một quy chế pháp lí và những ưu đãi đặc biệt nhằm thu hút đầu tư nước ngoài để sản xuất, chế tạo hàng xuất khẩu và tiến hành các dịch vụ và hoạt động kinh tế hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu và cho xuất khẩu]. + Về quy mô, có thể chia ra các khu công nghiệp quy mô lớn, vừa, nhỏ. + Về tính chất độc lập hay phụ thuộc [tương đối] có khu công nghiệp nằm ngoài hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cao hơn nó và có khu công nghiệp là một bộ phận của trung tâm hay dải công nghiệp. + Về trình độ công nghệ, chia ra khu công nghiệp kĩ thuật cao [là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp công nghệ kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho việc phát triển công nghệ cao bao gồm: nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan có ranh giới xác định do chính phủ quyết định thành lập], và khu công nghiệp có công nghệ trung bình, thậm chí có cả xí nghiệp thủ công. Như vậy, khác hẳn với quan niệm của Liên Xô trước đây, khái niệm khu công nghiệp của các nước phương Tây có quy mô nhỏ hơn và là đơn vị tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở cấp thấp hơn nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ngoài ra còn có khái niệm quận công nghiệp - là một khu vực có ranh giới khép kín trong một đơn vị hành chính cấp thấp. Cho đến năm 1959, ở Hoa Kì đã có 55 khu công nghiệp tập trung, đến năm 1970 con số này tăng lên 2400, năm 1965 có 1117 quận công nghiệp.

CHƯƠNG 2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á VÀ VIỆT NAM

  1. TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á Cũng giống như các nước phương Tây, các nước trong khu vực châu Á nhấn mạnh đến quan niệm và quá trình hình thành các khu công nghiệp. Hơn 40 năm qua, một số nước đã có nhiều thành tựu trong việc xây dựng các khu chế xuất, khu thương mại tự do, khu công nghiệp… và nó là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các quốc gia này 1. Đài Loan Đài Loan là quần đảo nhỏ nằm trên vịnh Bắc Bộ. Từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, các nhà hoạch định chính sách của Đài Loan luôn xác định để tồn tại và phát triển, Đài Loan phải xây dựng mô hình kinh tế theo “cơ chế hướng ngoại” và phát triển công nghiệp. Trong đó, mô hình KCN được coi là chiến lược tạo thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của Đài Loan. Đài Loan được coi là tiên phong và thành công trong phát triển KCN ở châu Á thời kỳ đầu thập niên 50, 60 của thế kỷ XX. Đài Loan chủ trương phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng hoá tiêu dùng, xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động. Chính sách phát triển KCN của Đài Loan: Để đảm bảo cho các KCN hoạt động có hiệu quả, sự phát triển các KCN ở Đài Loan luôn gắn liền với việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và xã hội bên trong và bên ngoài KCN như hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện nước, các dịch vụ bưu điện, ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống xử lý chất thải tập trung… xây dựng các khu đô thị xung quanh, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực, dịch vụ tiện ích công nghiệp và đời sống, đặc biệt chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường. - Việc quy hoạch xây dựng và phát triển KCN của Đài Loan thường xuyên được kiểm tra, đánh giá lại sự phù hợp giữa quy hoạch và thực tế, nhất là những vấn đề liên quan tới môi trường để kịp thời điều chỉnh bổ sung. Việc quy hoạch xây dựng các KCN của Đài Loan luôn tuân theo nguyên tắc là khai thác và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng và toàn lãnh thổ, hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào việc phát triển các KCN. - Về định hướng phát triển KCN, các nhà hoạch định chính sách Đài Loan luôn xác định, để có thể bắt kịp xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế và sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ trên thế giới, trong những năm tới, việc phát triển các KCN tập trung cần được đổi mới theo hướng chuyển thành các KCN có dịch vụ kỹ thuật, công nghệ cao,đáp ứng được nhiệm vụ là nơi tập trung chuyển và chế biến sản phẩm cao cấp cho xuất khẩu và thị trường trong nước - Về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KCN: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm thiểu chi phí sản xuất, vừa có điều kiện xử lý chất thải,bảo vệ môi trường, vừa giúp cho các doanh nghiệp có thể sớm triển khai các dự án đầu tư. Đây là yếu tố tạo sự hấp dẫn cho các KCN. - Đài Loan thực hiện quản lý Khu công nghệ cao theo cơ chế “ Một cửa”: Người có nhu cầu giải quyết công việc chỉ cần đến 1 nơi, ở đó sẽ được thông báo công khai tiến trình và thời hạn xử lý công việc, nơi nhận hồ sơ sẽ chịu trách nhiệm đôn đóc xử lý công việc ở các khâu và theo đúng hẹn trả kết quả cho người có nhu cầu. Thủ tục xin giấy phép đầu tư, hải quan trong các KCN cao được thực hiện chế độ “một cửa” cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó Đài Loan còn dành cho các nhà đầu tư nhiều ưu đãi, đặc biệt là chính sách thuế [thuế thu nhập doanh nghiệp thấp, thời gian miễn và giảm thuế dài…], các thủ tục hành chính được đơn giản hoá, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi… Các KCN ở Đài Loan đã thực sự là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Chính sách phát triển KCN của Đài Loan được tiến hành theo 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Chủ trương phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu và những ngành sử dụng nhiều lao động - Giai đoạn 2 [Từ năm 1965 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX]: Tập trung đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài bằng việc thành lập các khu chế xuất với nhiều ưu đãi. Ngày 03/12/1966 KCX Cao Hùng chính thức được thành lập. Đến tháng 01/1969 và tháng 08/1969 Đài Loan tiếp tục mở thêm 2 khu nữa: KCX Nam Tử ở vùng Nam Tử và KCX Đàn Tử ở huyện Đài Trung. - Giai đoạn 3 [Từ năm 1990 đến nay]: Chính sách phát triển KCN chuyển từ đầu tư chiều rộng sang chiều sâu, tức là nâng cao chất lượng bằng việc tập trung xây dựng các khu công nghệ cao, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học – công nghệ với công nghiệp…,phát triển các KCN với hình thức đa dạng: KCN đa ngành, KCN chuyên ngành [Dầu khí, ôtô, xi măng], khu công nghệ cao… Từ năm 1966 đến năm 1997 Đài Loan đã có 95 KCN, trong đó Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở là 58 khu, còn lại do các nhà đầu tư tư nhân và các tổ chức đầu tư khác tham gia. Trong hơn 30 năm qua, hoạt động của các KCX đã đóng góp rất quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế Đài loan. Đại bộ phận giá trị hàng xuất khẩu là được sản xuất trong các KCX. Hình 5. Một góc thành phố Cao Hùng Ba khu chế xuất Cao Hùng, Nam Tử, Đài Trung, với diện tích 192ha đã tạo việc làm cho 96 ngàn lao động, thu nhập 20 tỷ USD trong 27 năm hoạt động [1966 - 1992]. Có thể nói, hệ thống chính sách kinh tế Đài Loan luôn được hoạch định và điều chỉnh kịp thời khi tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế thay đổi, nên nó có tính năng động và tính khả thi cao, thực sự trở thành kim chỉ nam, là đòn bẩy kích thích sự phát triển. Theo kinh nghiệm của Đài Loan thì muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với tốc độ nhanh và đạt hiệu quả cao thì nhất thiết phải đẩy mạnh các KCX và khu công nghệ cao. Mỗi tỉnh, thành phố nên có 1 KCX và mỗi KCN sẽ trở thành trung tâm động lực thúc đẩy hoạt động.

2. Hàn Quốc Hàn Quốc nằm ở phần phía nam bán đảo Triều Tiên,với thành phố lớn nhất là Seoul, những thành phố lớn khác như Incheon ở phía Tây,Daegu và Busan ở phía Đông Nam… Hàn Quốc là quốc gia có nền kinh tế thị trường. Nếu cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội Hàn Quốc chỉ đứng ngang với các nước nghèo ở châu Phi và châu Á thì hiện nay tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc đã xếp thứ 10 trên thế giới Khu chế xuất ở Hàn Quốc đầu tiên là KCX MacSan được xây dựng vào năm 1970 và được coi là 1 trong 20 biện pháp của Nhà nước trong chính sách khuyến khích xuất khẩu. KCX trở thành cầu nối giữa nền kinh tế trong và ngoài nước thông qua các khâu cung cấp mguyên liệu và hợp đồng gia công giữa KCX với các xí nghiệp trong nước. Ngoài ra còn có khu kinh tế tự do. Khu kinh tế tự do là tên gọi chung cho các đặc khu kinh tế được thành lập trong 1 quốc gia nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước bằng các biện pháp khuyến khích đặc biệt [tạo môi trường kinh doanh thuận lợi như miễn giảm thuế, chính sách linh hoạt về lao động…], cơ sở hạ tầng tiện lợi, vị trí địa lí chiến lược [gắn với cảng biển, cảng hàng không quốc tế, gần thị trường tiêu dùng lớn ], các hỗ trợ và ưu đãi khác… Việc thành lập các đặc khu kinh tế tự do còn nhằm mục tiêu kích thích phát triển kinh tế tại 1 số địa phương kém phát triển hơn của quốc gia. Ở Hàn Quốc có các khu kinh tế tự do là: + Incheon: Là thành phố TW và cảng lớn ven bờ biển phía Tây của Hàn Quốc, gần Seoul. + Busan - Jinhae: Đại đô thị Busan là thành phố lớn thứ 2 của Hàn Quốc sau Seoul, đây là thành phố cảng lớn nhất Hàn Quốc với dân số khoảng 4 triệu người. Khu vực tự do kinh tế Busan - Jinhae được thành lập đã thu hút nhiều tàu bè đến với Busan, tạo điều kiện cho Busan chuyển mình thành 1 trung tâm tài chính lớn của Hàn Quốc, là trung tâm thương mại sầm uất. Hình 6. Một góc đô thị Busan + Gwangyang: Là 1 thành phố nằm ở phía Nam Hàn Quốc. + Daegu: Là thành phố trực thuộc TW lớn thứ 4 của Hàn Quốc [sau Seoul, Busan, Incheon]. Các ngành kinh tế chính của Daegu là công nghiệp dệt may, luyện kim, và chế tạo máy. Các trung tâm công nghiệp sản xuất ra các linh kiện bán dẫn, thiết bị viễn thông, động cơ mô tô, máy vi tính, tàu biển, chất hoá dầu…xuất khẩu sang các nước khác [Nhật Bản, Trung Quốc…]. Hàn Quốc có nhiều công ty lớn có vị trí trên trường thế giới như Sam Sung, Hyundai, GM Daewoo… 3. Ma-lai-xi-a Nằm ở vị trí trung tâm vùng Đông Nam Á. Phía Tây là bán đảo Ma-lai-xi- a và quần thể các đảo ở ngoài khơi, phía Bắc giáp Thái lan, phía nam giáp Xin-ga-po, phía Đông giáp với phần phía nam đảo Boóc-nê-ô, Bru- nây và In-đô-nê-xi-a Là 1 trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh, trong những thập niên vừa qua được thế giới đánh giá là “thần kỳ” và “ngoạn mục”. Năm 2006, quốc gia này được xếp hạng thứ 26 thế giới về mức độ thuận lợi kinh doanh và xếp thứ 23 về mức độ cạnh tranh, vượt hẳn Thái Lan 5 bậc, trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 Đông Nam Á sau Xin-ga-po. KCX lúc đầu còn có tên gọi là khu thương mại tự do với sự hình thành khu BuyanLapas vào năm 1972, diện tích 135 ha. Từ năm 1990 khu thương mại tự do được đổi thành khu tự do [free zone ]. Khu tự do bao gồm khu công nghiệp tự do và khu mậu dịch tự do, nhưng thực chất vẫn là khu công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện tại trên toàn lãnh thổ Ma-lai-xi-a có trên 200 KCN tập trung do các cơ quan, chính phủ xây dựng. KCX của Pênang chính là khu phát triển mạnh và có tác động lớn nhất đến sản xuất xuất khẩu thành phẩm công nghiệp chế biến của Ma-lai-xi-a. So với Đài Loan và Hàn Quốc thì các KCX của Ma-lai-xi-a xuất hiện sau và có nhiều ưu đãi hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài vào các KCX Ma-lai-xi-a được xếp loại cao, sau các đặc khu kinh tế Trung Quốc. Các KCX Ma-lai-xi-a đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu của Ma-lai-xi-a. Theo số liệu thống kê năm 1979 sản phẩm công nghiệp của các KCX trị giá trên 1,9 tỷ USD [bằng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm công nghiệp của Ma-lai-xi-a]. Đặc biệt mặt hàng điện tử tăng nhanh từ 8 triệu đô la năm 1971 lên 800 triệu USD năm 1979. Với việc lập KCX mới ở cảng Pasir Gudang để cạnh tranh với cảng Xin-ga- po, các KCX của Ma-lai-xi-a - dưới tên gọi Khu mậu dịch tự do - mặc dù không đạt mức cao như ở Đài Loan, Hàn Quốc, nhưng những lợi ích của nó đối với quá trình phát triển của Ma-lai-xi-a là rất lớn. Hình 7. Khu công nghiệp Pasir Gudang 5. Nhật bản: Ngày nay khi đề cập tới các nước công nghiệp phát triển không thể không kể tới đảo quốc Nhật bản, với vị thế luôn là nước dẫn đầu về khoa học công nghệ. Từ 1 đống tro tàn sau đại chiến lần thứ 2, chỉ sau 1 thời gian ngắn xứ sở hoa anh đào nhiều thiên tai này đã trở thành 1 anh hùng khổng lồ khiến cả thế giới ngưỡng mộ với thế mạnh đặc biệt trong các ngành chế tạo Mấy thập kỷ gần đây Nhật Bản bước vào 1 cao trào phát triển kinh tế với khối lượng hàng hóa nhiều, hàm lượng Khoa học cao,trở thành 1 siêu cường trên thế giới, 1 trung tâm tài chính lớn trên thế giới nhờ tài năng động, nhạy cảm nắm bắt được sự thay đổi tình hình thế giới và khai thác tối đa những tài nguyên mà đất nước có, đặc biệt là tài nguyên trí tuệ Công nghiệp là sức mạnh của nền kinh tế Nhật bản. Công nghiệp phát triển với tốc độ cao, nhiều ngành đứng hàng đầu thế giới [ các ngành chế tạo, điện tử, rôbốt..] Hình thành nhiều công ty lớn đóng vai trò đáng kể vào sự tăng trưởng nền kinh tế Nhật Bản như Mitsubishi, Misui, Fuji, Toshiba, Hitachi, Honda… Các xí nghiệp mới được áp dụng các công nghệ hiện đại, công nghệ cũ được chuyển giao cho các xí nghiệp nhỏ và trung bình Giá trị sản lượng công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới sau Hoa Kỳ Công nghiệp Nhật Bản có mức độ tập trung cao, nhiều trung tâm và cụm trung tâm lớn, nhiều dải công nghiệpvới nhiều trung tâm công nghiệp. Các khu công nghiệp của Nhật bản đều được phân bố ở ven biển, đồng thời cũng là các hải cảng tạo thành các dải công nghiệp lớn như khu luyện thép Xiu Netlexu, khu làm giấy Hôcaiđô, khu hoá chất Kiuxiu, khu điện tử Kiuxiu Các trung tâm công nghiệp của Nhật Bản tập trung chủ yếu ở ven biển, đặc biệt là ven Thái bình Dương và nằm trong các vùng kinh tế gắn với các đảo lớn của Nhật Bản: • Vùng kinh tế Hôn – xu: Kinh tế phát triển nhất trong các vùng. Phía đông của đảo là các thành phố thông ra Thái Bình Dương, là cửa ngõ nối với thế giới, đặc biệt là với Mỹ. Các trung tâm công nghiệp lớn : Tokyo, Iôcôhama, Nagôia, Kiôtô, Ôxaca, Côbê, tạo nên “chuỗi đô thị” • Vùng kinh tế Kiuxiu: Phát triển công nghiệp nặng, đặc biệt là khai thác than và luyện thép. Các trung tâm công nghiệp lớn là : Phucuôca, Nagaxaki • Vùng kinh tế Hôcaiđô: Phát triển công nghiệp khai thác than, quặng sắt, luyện kim đen, khai thác và chế biến gỗ, sản xuất giấy và bột xenlulô. Các trung tâm công nghiệp lớn là Xapôrô, murôran Trong đó đặc biệt nổi lên các trung tâm công nghiệp với quy mô rất lớn, là : - Tôkyô: Không chỉ là trung tâm hành chính của Nhật Bản, Tôkyô còn là trung tâm kinh tế của cả nước. Tôkyô có nền kinh tế của khu đô thị lớn nhất thế giới, GDP của thành phố này vào khoảng 1315 tỷ USD, lớn hơn kinh tế của Canada, là nền kinh tế lớn thứ 8 trên thế giới Các ngành công nghiệp chính là điện tử,viễn thông,dệt may, sản xuất ôtô, cơ khí - Iôcôhama : Luyện kim đen, đóng tàu , hoá dầu, thực phẩm - Ca-oa-xa-ki : Luyện kim đen, hoá chất, điện tử viễn thông, cơ khí - Nagôia : Luyện kim đen, hoá chất, chế tạo máy bay, sản xuất ôtô - Ôxaca : Hoá dầu, luyện kim màu, chế tạo máy bay, cơ khí - Côbê : Cơ khí, dệt may, sản xuất ôtô,đóng tàu Ngoài ra còn có các trung tâm công nghiệp lớn, nhỏ khác [ Cusirô, Xappôrô,kiôtô, Nagaxaki…]

4. Trung Quốc Là nước láng giềng ở phía Bắc nước ta, có dân số đông nhất thế giới. Cho đến nay cả thế giới đều phải công nhận và khâm phục những thành công trong công cuộc đổi mới,tái thiết kinh tế của đất nước Trung Hoa rộng lớn. thành công đó là kết quả của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Thực tế cho thấy việc hình thành và phát huy hiệu quả của hệ thống các khu công nghiệp ở Trung Quốc là 1 trong những nhân tố quyết định. chiến lược phát triển KCN ở Trung Quốc không tách khỏi những lý luận chung nhưng mang đậm màu sắc Trung Quốc Trong các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Trung Quốc nổi lên là các Khu công nghiệp tập trung [xuất hiện dưới tên là các đặc khu kinh tế - ĐKKT]. Các đặc khu kinh tế được chính phủ Trung Quốc tạo ra trong thời kỳ mở cửa hội nhập theo nền kinh tế thị trường do Đặng Tiểu Bình chủ xướng vào cuối thập kỷ 70. Trung Quốc thời kỳ đầu mở cửa đã chọn các tỉnh duyên hải xây dựng hàng loạt các KCN tập trung, đã biên các vùng đất không có khả năng sản xuất nông nghiệp thành các trung tâm công nghiệp, đô thị từ đó mở rộng vào nội địa. Việc bố trí địa điểm như vậy có thể tận dụng được những điều kiện thuận lợi, không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và khu dân cư Đặc khu kinh tế là vùng đất được khoanh lại trong một quốc gia hay khu vực, hưởng các chính sách và các chế độ ưu đãi đặc biệt trong quy định của hiến pháp và pháp luật, nhằm thu hút nguồn vốn, công nghệ, và phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài, phát triển các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo mô hình hướng ngoại. Hoạt động kinh tế của vùng đa dạng, mang tính tổng hợp. Chính phủ Trung Quốc coi việc xây dựng các ĐKKT là nhiệm vụ trọng tâm và bước đi đầu tiên trong chiến lược mở cửa các vùng kinh tế biển. Các đặc khu kinh tế có chức năng : - Là cửa sổ giao lưu với thế giới bên ngoài trong các lĩnh vực thu hút vốn đầu tư, du nhập công nghệ kỹ thuật hiện đại - Tiếp thu kinh nghiệm và phương thức quản lý tiên tiến - Mở rộng buôn bán mậu dịch và hợp tác văn hoá, khoa học - Thử nghiệm các chính sách, phương thức hoạt động kinh tế mới nhằm từng bước nhân rộng mô hình hướng ngoại của các vùng , các tổ chức trong nước. Các ĐKKT có nhiệm vụ là cầu nối hỗ trợ, lôi kéo và gắn kết hoạt động kinh tế cảu các vùng nội địa với đặc khu và với thế giới bên ngoài Trung Quốc đòi hỏi các đặc khu kinh tế phải đảm bảo đủ 4 điều kiện sau: 1. Thực hiện cơ cấu nhiều thành phần, trong đó xí nghiệp 3 loại vốn [liên doanh, hùn vốn nước ngoài, và 100 % vốn nước ngoài ] đóng vai trò chủ đạo. 2. Nguồn vốn xây dựng và phát triển ĐKKT được huy động từ đối tác nước ngoài là chủ yếu. 3. Hàng hoá sản xuất từ ĐKKT phải đáp ứng mục tiêu xuất khẩu là chủ yếu. 4. Các đặc khu chủ yếu vẫn tuân theo quy luật điều tiết của thị trường. Các ĐKKT có tính chất hướng ngoại, liên kết và hội nhập. Các ĐKKT được xây dựng và phát triển theo mô hình mở, linh hoạt [ cơ chế quản lý thông thoáng, hiệu quả, hệ thống chính sách đặc biệt, ưu đãi trên nhiều lĩnh vực như thuế, tài chính, đất đai…]. Hiện nay Trung Quốc có hơn 1 ngàn khu kinh tế mở, khu chế xuất, khu phát triển công nghệ cao hay các khu có tên khác nhau nhưng có cùng bản chất. 4.1. Đặc khu kinh tế Thâm Quyến Công trường xây dựng Thâm Quyến là thành phố trực thuộc tỉnh của tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.. Đặc khu kinh tế Thâm Quyến có diện tích 2050 km2, dân số năm 2007 là 8,6 triệu người, GDP 676,5 tỷ nhân dân tệ. Thành phố giáp biên giới với Hồng Công, cách Quảng Châu 160 km về phía nam. Cảng Thâm Quyến là 1 trong những cảng tấp nập nhất Trng Quốc, chỉ sau Thượng Hải. Trong 30 năm qua Thâm Quyến đã thu hút trên 30 tỷ USD đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp bên ngoài. Là đặc khu đầu tiên trong 5 ĐKKT tại Trung Quốc, được thành lập vào năm 1980, mục tiêu xây dựng Thâm Quyến thành Hồng Công thứ 2. Trung Quốc đã đầu tư rất lớn vốn để hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút đầu tư nước ngoài.. Thâm Quyến được xây dựng theo mô hình của khu kinh tế tổng hợp, đa ngành nghề, bao gồm công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và khoa học kỹ thuật; liên kết nhiều chiều, vừa hướng ngoại, vừa hợp tác với các vùng sâu trong nội địa. Thâm Quyến đã trở thành 1 ĐKKT phát triển hiện đại, điển hình, có vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ các vùng kinh tế nội địa kém phát triển, làm cầu nối cho các mối liên hệ liên doanh, liên kết giữa các xí nghiệp trong nước với xí nghiệp nước ngoài. Thâm Quyến cũng là nơi sớm hình thành thị trường chứng khoán, góp phần quan trọng trong việc đưa Trung Quốc hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế toàn cầu. Hình 8. Thành phố Thâm Quyến Thâm Quyến là 1 trung tâm chế tạo lớn của Trung Quốc. “ Mỗi ngày 1 cao ốc, 3 ngày 1 đại lộ ” là khẩu hiệu nổi tiếng của Thâm Quyến cuối thập niên 90. Với 13 toà cao ốc, hơn 200 m [bao gồm toà nhà Quảng Trường Tôn Hinh cao thứ 8 thế giới], Thâm Quyến là 1 thành phố diệu kỳ lúc màn đêm buông xuống. Thành phố có sự hiện diện của hơn 400/ 500 công ty lớn nhất thế giới. Sở giao dịch chứng khoán của Thâm Quyến có 540 công ty niêm yết và 177 nhân viên chứng khoán, tổng vốn 122 tỷ, mỗi ngày co 600.000 giao dịch, giá trị 807 triệu USD. 4.2. Đặc khu kinh tế Chu Hải Chu Hải hay Châu Hải là thành phố trực thuộc tỉnh ở bờ biển phía nam tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Toạ lạc ở đồng bằng châu thổ sông Châu Giang, Châu Hải giáp Giang Môn ở phía Tây bắc, Trung Sơn phía Bắc và Ma Cao phía Nam, cách Quảng Châu 140 km về phía Tây nam. Là một trong những đặc khu kinh tế do vị trí giáp Ma Cao như Thâm Quyến liền kề Hồng Công vậy. Chu Hải vừa có điều kiện thu hút đầu tư bên ngoài, vừa là nơi có tiềm năng du lịch. Đặc khu thành lập vào năm 1980, được xây dựng theo mô hình tổng hợp với 6 khu vực kinh tế chủ yếu: Trung tâm hành chính, văn hoá, tiền tệ, khu công nghiệp vật liệu xây dựng, khu công nghiệp điện tử, cơ sở nghiên cứu khoa học, khu dịch vụ dầu khí, khu trung tâm thương mại và khu du lịch, vui chơi, giải trí. Các ngành cơ bản trong đặc khu chủ yếu là công nghiệp nặng, điện tử, phần mềm, công nghệ sinh học, dược phẩm, máy lọc hoá dầu…Các tập đoàn kinh tế lớn như: Esson Mobil, British Petroleum, Siemens, Carrefour và Matsushita. Thành phố có 5 khu kinh tế, đó là: - Khu công nghệ cao [Zhuhai High- Tech Industrial Development Zone]. - Khu tự do thương mại [Zhuhai free trade zone]. - Khu công nghiệp cảng [Harbour industrial zone ]. - Khu thử nghiệm phát triển đại dương [Wanshan ocean development testing zone]. - Khu phát triển kinh tế [ Heng Qin economic development zone ] Diện mạo và sức sống của Chu Hải hiện nay đã đuổi kịp và vượt Ma Cao. 4.3. Đặc khu kinh tế Sán Đầu Là thành phố ven biển thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Là 1 trong 6 đặc khu kinh tế của Trung Quốc được thành lập vào những năm 80, nhưng không bùng nổ, phát triển như các đặc khu khác như Chu Hải, Thâm Quyến và Hạ Môn với dân số 1,2 triệu người và dân số vùng đô thị là 4,7 triệu [2006]. Là trung tâm phía đông của tỉnh Quảng Đông, đây là nơi có nhiều lợi thế về mặt du lịch, buôn bán quốc tế và thu hút đầu tư bên ngoài. Đặc khu đã thu hút được khá lớn nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, thực hiện tương đối hiệu quả mô hình kinh tế hướng ngoại, phát huy vai trò cầu nối, góp phần làm sống động các vùng kinh tế nội địa trong mối quan hệ chung với các hoạt động đối ngoại.

4.4. Đặc khu kinh tế Hạ Môn Là thành phố cấp tỉnh ven biển nằm ở phía Đông Nam tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Thành phố nhìn ra eo biển Đài Loan, giáp với thành phố Tuyền Châu về phía Bắc và Chương Châu về phía Nam. Hạ Môn là 1 trong những đặc khu kinh tế của Trung Quốc, có vị trí thuận lợi, rất gần Thượng Hải, Quảng Châu, Hồng Công là những nơi có nhiều thế mạnh trong giao lưu, hợp tác kinh tế. Hạ Môn khá thành công trong việc xây dựng mô hình kinh tế hướng ngoại đa dạng với nhiều lĩnh vực kinh doanh, sản xuất, trong đó công nghiệp, dịch vụ du lịch là hai ngành quan trọng nhẩt. Đồng thời Hạ Môn cũng chú trọng phát triển các ngành kỹ thuật cao như công nghệ lazer, vật liệu mới, vi sinh, điện tử… 4.5. Đặc khu kinh tế Hải Nam Hải Nam là đảo lớn nhất nằm ở phía Nam Trung Quốc. Năm 1988 Hải Nam tách khỏi tỉnh Quảng Đông trở thành tỉnh riêng, đồng thời là 1 đặc khu kinh tế của Trung Quốc. Hải Nam luôn chú ý đến việc hoàn thiện, nâng cấp cơ sở hạ tầng và cải cách thể chế quản lý. Hải Nam đã thực hiện chương trình xây dựng 2 khu khai phát kỹ thuật cao là Hà Khẩu và Dương Phố. Tại đây đã ưu tiên đầu tư xây dựng các ngành kỹ thuật cao, vừa phục vụ trực tiếp cho mục tiêu phát triển khu khai phát, vừa trợ giúp các ngành sản xuất, kinh doanh trên toàn đảo. Hải Nam còn trở thành điểm du lịch hấp dẫn đối với khách quốc tế và các khu vực khác của Trung Quốc Nói chung chiến lược sản xuất trong KCN[ Các ĐKKT ] có nét chung với chiến lược phát triển nền kinh tế đó là “ hướng ra ngoài”, sản xuất hàng xuất khẩu. Chiến lược đó đến nay đã thành công khi hàng hoá Trung Quốc chiếm 1 tỷ trọng không nhỏ [trên 10%] trong tổng kim ngạch xuất khẩu trên toàn thế giới. Trung Quốc đã chiếm ngôi của Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới từ năm 2007 và hiện nay là nền kinh tế lớn thứ 2 sau Hoa Kỳ, dự kiến đến năm 2035 Trung Quốc sẽ trở thành nước đứng đầu trên thế giới Bên cạnh các đặc khu kinh tế, ở Trung Quốc cũng nổi lên các trung tâm công nghiệp rất lớn như: Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, Hồng Công, Vũ Hán; các trung tâm công nghiệp nhỏ như: Cáp Nhĩ Tân, Thẩm Dương, Thiên Tân…Với các ngành công nghiệp chính là : luyện kim đen,luyện kim màu, điện tử viễn thông, đóng tàu biển, sản xuất ôtô, dệt may, hoá dầu… Các trung tâm công nghiệp lớn ở Trung Quốc đều tập trung ở miền Đông, đặc biệt ở miền duyên hải, tại các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, Quảng Châu. Tóm lại các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp rất đa dạng, phong phú, có đầy đủ các hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Tuy nhiên trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của các nước châu Á [ trong đó có Việt Nam ],với mục tiêu thu hút đầu tư trong và ngoài nước, để đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường…góp phần vào sự thành công của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, vào việc nâng cao vị thế của các nước trên trường quốc tế phải kể tới đó là các khu công nghiệp tập trung, và các hình thức của nó.

II. TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 1. Khái quát về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam Trước thập kỷ 90 của thế kỷ XX hầu như chưa có các nghiên cứu về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam. Ngay cả khi nhà nước tiến hành “Chương trình lập tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất trên quy mô cả nước và từng địa phương”.Vào nửa đầu thập kỷ 50, vấn đề này cũng chưa được đề cập đến bao nhiêu. Ở các trường đại học, có chăng cũng chỉ là tổng quan về phương diện lý luận tổ chức lãnh thổ công nghiệp của các nước, chủ yếu là Liên Xô và Đông Âu. Vì thế, giá trị thực tiễn của nó còn hạn chế. Năm 1994, lần đầu tiên một cơ quan chức năng của nhà nước [việnchiến lược thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư ] đưa ra 6 hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp vàvận dụng chúng vào thực tiễn công nghiệp đất nước. Đó là: điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm công nghiệp, dải công nghiệp và địa bàn công nghiệp trọng điểm. tất nhiên,vấn đề này còn có những ý kiến trao đổi khác nhau, song dẫu sao một số nội dung và hình thức cơ bản đã được định hình và đi vàohực tiễn tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam . Theo đề tài “Xây dựng các mô hình khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam trong giai đoạn 1994-2010” của viện chiến lược phát triển [1995], thì 5 hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp bao gồm: điểm công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp,trung tâm công nghiệp, dải công nghiệp và địa bàn [vùng] công nghiệp trọng điểm. 2. Điểm công nghiệp Điểm công nghiệp là một lãnh thổ không lớn có ranh giới ước lệ và cũng được xác định bởi một văn bản pháp lí, có quy mô nhỏ hơn cụm công nghiệp, được bố trí tập trung một số ít cơ sở công nghiệp. Điểm công nghiệp thường gắn với địa bàn xã hoặc liên xã, hạt nhân để phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Điểm công nghiệp thường chỉ là một, hai xí nghiệp phân bố đơn lẻ, có kết cấu hạ tầng riêng. Nó được phân bố gần nguồn nguyên liệu với chức năng khai thác hay sơ chế nguyên liệu hoặc ở những điểm dân cư nằm trong một vùng nguyên liệu nông, lâm, thủy sản nào đó. Cũng có thể nằm trong vùng tiêu thụ để phục vụ cho những nhu cầu nhất định của dân cư. Điểm công nghiệp có một số đặc trưng sau đây: - Lãnh thổ nhỏ hơn với một [hai] xí nghiệp, phân bố lẻ tẻ, phân tán. - Hầu như không có mối liên hệ sản xuất với các xí nghiệp khác. - Thường gắn với một điểm dân cư nào đó. Ở đây cần phân biệt điểm công nghiệp với xí nghiệp công nghiệp. Điểm công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Trong khi đó, xí nghiệp công nghiệp là hình thức tổ chức sản xuất, là đơn vị cơ sở của phân công lao động về mặt địa lí. Nếu xét về hính thức, chúng có vẻ như nhau, nhưng về bản chất lại hoàn toàn khác nhau. Vấn đề là ở chổ, một bên là hình thức tổ chức công nghiệp theo lãnh thổ, còn bên kia lại là cách thức tổ chức sản xuất công nghiệp. Các xí nghiệp có tính độc lập về kinh tế, có công nghệ sản xuất sản phẩm riêng. Do tính chất và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của các ngành công nghiệp có sự khác nhau mà quy mô của các xí nghiệp cũng khác nhau. Có xí nghiệp chỉ có vài chục hoặc vài trăm công nhân [như chế biến nông sản] và được bố trí gọn trong một xưởng sản xuất, nhưng cũng có xí nghiệp thu hút hàng nghìn công nhân, gồm nhiều công trình nhà xưởng, diện tích tương đối lớn [như các xí nghiệp khai thác khoáng sản]. Hiện nay, do sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, số lượng xí nghiệp có quy mô lớn tăng lên nhanh chóng ở tất cả các ngành công nghiệp. Điểm công nghiệp theo kiểu đơn lẻ này cũng có những mặt tích cực nhất định. Nó có tính cơ động, dễ đối phó với các sự cố và thay đổi trang thiết bị, không bị ràng buộc và ảnh hưởng của các xí nghiệp khác, đặc biệt thuận lơi cho sự thay đổi mặt hàng trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những mặt hạn chế lại rất nhiều. Đó là việc đầu tư khá tốn kém cho cơ sở hạ tầng, các chất phế thải bị lãng phí do không tận dụng được, có mối liên hệ [sản xuất, kinh tế, kỹ thuật…] với các xí nghiệp công nghiệp khác hầu như thiếu vắng và vì vậy, hiệu quả kinh tế thường thấp. 3. Cụm công nghiệp 3.1. Khái quát Cụm công nghiệp là một lãnh thổ có ranh giới ước lệ nhưng được xác định bởi văn bản pháp lí, với quy mô nhỏ hơn khu công nghiệp và được bố trí một số cơ sở công nghiệp thuần tuý. Cụm công nghiệp thường gắn với lãnh thổ cấp huyện hoặc liên huyện, hạt nhân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn ở cấp huyện Việt Nam. Như vậy, đặc điểm của cụm công nghiệp là: - Lãnh thổ nhỏ, với một vài xí nghiệp công nghiệp. - Các mối liên hệ giữa các xí nghiệp đơn giản, thiếu chặt chẽ. - Không có ranh giới rõ rệt và ban quản lí chung. Ở nước ta cụm công nghiệp được phân bố ở các thị trấn, thị xã, dọc theo các tuyến giao thông…Trong quá trình phát triển, cụm công nghiệp thường là hạt nhân hình thành nên các khu công nghiệp. Ở Việt Nam tài liệu nghiên cứu về cụm công nghiệp rất ít, thường chỉ chú ý đến việc nghiên cứu khu công nghiệp. Nhưng hiện nay một vấn đề nổi lên đáng được quan tâm đó là cụm công nghiệp làng nghề. Vì thời gian có hạn nên trong phạm vi đề tài này khi tìm hiểu về cụm công nghiệp thì sẽ tập trung vào cụm công nghiệp làng nghề. 3.2. Phát triển cụm công nghiệp làng nghề trong quá trình hội nhập Trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá ở nước ta, các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ như: khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề đã phát triển. Sau khi có quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, cụm công nghiệp làng nghề rất phát triển ở các địa phương có nhiều làng nghề. Tuy có những cách hiểu khác nhau về cụm công nghiệp làng nghề, nhưng có thể quan niệm, cụm công nghiệp làng nghề là một địa điểm phân bố sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ kinh tế gia đình, kinh doanh công nghiệp và dịch vụ nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo ra cơ sở hạ tầng tốt hơn và tạo điều kiện tốt hơn cho sản xuất kinh doanh. Khác với khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề có quy mô nhỏ hơn, điều kiện và phương tiện xử lý môi trường, các cơ sở hạ tầng kém hơn. Cụm công nghiệp làng nghề khác với khu công nghiệp vừa và nhỏ ở chỗ: Khu công nghiệp vừa và nhỏ được hình thành chủ yếu do thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ mới và do di chuyển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố ra để khắc phục ô nhiễm môi trường. Còn các cụm công nghiệp làng nghề gồm các cơ sở sản xuất được hình thành từ các hộ kinh doanh gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở làng nghề. 3.2.1. Phát triển cụm công nghiệp làng nghề là yêu cầu cấp thiết giải quyết mặt bằng cho sản xuất kinh doanh và khắc phục ô nhiễm môi trường ở làng nghề Trong những năm đổi mới làng nghề ở nông thôn Việt Nam đã có sự phát triển mạnh và đạt được những thành tích đáng ghi nhận, đó là: - Qui mô và giá trị sản xuất của các làng nghề không ngừng tăng lên qua các năm. Nhiều làng nghề mới hình thành, nhiều làng nghề phát triển trở thành xã nghề, vùng nghề. Theo số liệu điều tra của Tổ chức quốc tế Nhật Bản [2001] cả nước có 2.017 làng nghề, trong đó làng nghề ở Bắc Bộ chiếm 63%, đặc biệt vùng châu thổ sông Hồng chiếm tới 43% số làng nghề toàn quốc, số làng nghề và lao động trong các làng nghề đã tăng lên rõ rệt. Tốc độ tăng GTSX ở các làng nghề trong những năm qua đạt khá cao, vượt quá tốc độ tăng chung của công nghiệp cả nước. - Nhiều làng nghề đã có sự chuyển đổi cơ cấu sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường. Nhiều làng nghề đã chú ý đổi mới công nghệ. Nhìn chung sản xuất kinh doanh của các làng nghề được duy trì và phát triển, một số sản phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài. - Về tổ chức sản xuất – kinh doanh, ở nhiều làng nghề đã có sự đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Theo số liệu của tổ chức JICA [2001] tại các làng nghề trong cả nước có 851 doanh nghiệp [công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, công ty cổ phần] và 277 hợp tác xã hoạt động. Với sự phát triển “khá nóng” như vậy, các làng nghề đã nổi lên 2 mâu thuẫn lớn phải giải quyết, đó là: - Thiếu mặt bằng cho duy trì và mở rộng sản xuất – kinh doanh của các làng nghề. - Phải xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và giải pháp thích hợp để giải quyết ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển làng nghề. - Hình thành và phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là giải pháp hữu hiệu để giải quyết hai mâu thuẫn trên trong quá trình phát triển các làng nghề. 3.2.2. Quá trình hình thành và phát triển cụm công nghiệp làng nghề và lợi ích của nó Từ khi có quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Chính phủ về khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn thì các địa phương đã triển khai khá mạnh việc xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp làng nghề. Qua điều tra điển hình tại 4 tỉnh: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định, cho thấy, các tỉnh này đã kịp thời đề ra nghị quyết của tỉnh uỷ, UBND tỉnh và đã triển khai trong thực tế việc xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề. Các cụm công nghiệp làng nghề được hình thành và phát triển bằng hai con đường chính: - Sự tự phát từ một cụm sản xuất do các hộ tự xây dựng, sau đó phát triển thành cụm công nghiệp làng nghề. - Xây dựng mới cụm công nghiệp làng nghề. Hiện nay đang tồn tại hai loại cụm công nghiệp làng nghề: - Cụm công nghiệp làng nghề đa nghề như cụm công nghiệp làng nghề xã Đình Bảng, Tiên Sơn, Bắc Ninh. - Cụm công nghiệp làng nghề đơn nghề [phổ biến]. Từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh sau gần 7 năm thành lập cho thấy cụm công nghiệp làng nghề đã có ưu điểm và lợi ích rõ rệt sau đây: - Thúc đẩy phát triển công nghiệp – trung tâm công nghiệp ở các địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các tỉnh. - Tạo mặt bằng cho mở rộng và tăng quy mô sản xuất của nhiều làng nghề. Như vậy, có thể coi cụm công nghiệp làng nghề là cứ điểm, là khâu đột phá trong phát triển làng nghề ở trình độ mới qui mô nâng lên, hạn chế ô nhiễm môi trường và nâng cao chất lượng sự phát triển. 3.2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao vai trò cụm công nghiệp làng nghề trong quá trình hội nhập. - Qui hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề. Phải coi trọng công tác qui hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề vì khâu này phải đi trước và nó ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển lâu dài của cụm. Tư tưởng cần quán triệt trong qui hoạch là: phải tính toán mục tiêu và hiệu quả của cụm công nghiệp làng nghề. Về mục tiêu thành lập cụm công nghiệp làng nghề là hạn chế ô nhiễm môi trường và phát triển sản xuất kinh doanh, trong đó nhấn mạnh trước hết đến mục tiêu hạn chế ô nhiễm môi trường. Ngành nào, sản phẩm nào sản xuất phân tán ở làng nghề [thêu ren, mây tre đan….] có hiệu quả thì không nhất thiết phải thành lập cụm công nghiệp làng nghề. Ngành nào, sản phẩm nào nếu sản xuất phân tán ở làng xã làm môi trường bị ảnh hưởng thì kiên quyết thành lập cụm công nghiệp làng nghề để tách khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư. Cần tránh tình trạng biến cụm công nghiệp làng nghề thành một khu dân mới và nhân rộng ô nhiễm môi trường ra nơi mới. - Qui hoạch phát triển cụm công nghiệp làng nghề cần chú ý các kết hợp với: + Qui hoạch phát triển ngành nghề trong chiến lược lâu dài. + Qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. + Qui hoạch sử dụng đất đai của tỉnh. + Qui hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh. - Thực hiện các giải pháp giảm ô nhiễm môi trường. Trên thực tế, chưa có tiến bộ và thay đổi đáng kể trong giải quyết ô nhiễm môi trường ở các làng nghề khi thành lập cụm công nghiệp làng nghề. Để giảm ô nhiễm môi trường ở các làng nghề và các cụm công nghiệp làng nghề, cần có giải pháp đồng bộ về: Qui hoạch, công nghệ sản xuất, xử lý môi trường và chính sách kèm theo. + Về qui hoạch: Thành lập và phát triển các cụm công nghiệp làng nghề để tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực dân cư và tạo điều kiện mở rộng, phát triển sản xuất. Trong mỗi một cụm công nghiệp làng nghề, cần giành một diện tích đất đai nhất định để trồng cây xanh. + Về công nghệ sản xuất: Cần thay đổi và đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng áp dụng công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường, ví dụ: lò ga thay lò hộp sử dụng than củi trong các làng và các cụm công nghiệp sản xuất gốm sứ. + Về xử lý ô nhiễm: Tại các cụm công nghiệp làng nghề có thể thành lập các xí nghiệp xử lý chất thải và áp dụng các phương tiện xử lý chất thải. Nên có các giải pháp để nâng cao ý thức và trách nhiệm của mỗi người lao động. Mỗi cơ sở sản xuất - kinh doanh phải có giải pháp xử lý tập trung phế thải ở cụm công nghiệp làng nghề với sự hỗ trợ có hiệu quả của Nhà nước. + Về chính sách, nên có chính sách đầu tư hỗ trợ xử lý ô nhiễm môi trường. - Tổ chức bộ máy quản lý đối với cụm công nghiệp làng nghề. Để quản lý cụm công nghiệp làng nghề có hiệu lực và hiệu quả, vấn đề mấu chốt là phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý nội bộ cụm. Trong đó sẽ phân công phân cấp: Ai làm chức năng quản lý nhà nước? Ai quản lý nội bộ cụm công nghiệp làng nghề? Bộ máy chính quyền các cấp [tỉnh, huyện, xã] - với cơ quan giúp việc là các cơ sở ban, ngành của tỉnh và các phòng, ban của huyện, là cơ quan quản lý nhà nước đối với các cụm công nghiệp làng nghề. Nhà nước chịu trách nhiệm về qui hoạch, chỉ đạo thực hiện qui hoạch, ban hành, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện các qui định, hướng dẫn có tính pháp qui về xây dựng và phát triển cụm công nghiệp làng nghề. Ban Quản lý dự án cụm công nghiệp làng nghề ở các huyện là ban chuyên môn do Nhà nước tổ chức ra để lo việc: đầu tư, triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng và đưa cụm công nghiệp làng nghề vào hoạt động. Ban điều hành hoạt động cụm công nghiệp làng nghề [thực chất là ban quản lý nội bộ cụm] là một tổ chức do cụm công nghiệp làng nghề thành lập, sau khi công tác xây dựng hạ tầng kỹ thuật của cụm về cơ bản hoàn thành. Ban này hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu, hoặc một đơn vị thực hiện hạch toán kinh tế. - Hoàn thiện môi trường thể chế cho phát triển và quản lý các cụm công nghiệp làng nghề. Sau khi có Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, nhiều địa phương [tỉnh, huyện] đã ban hành các văn bản pháp qui để tiến hành xây dựng và phát triển cụm công nghiệp làng nghề. Các văn bản pháp qui này đã tạo cơ sở pháp lý để triển khai khá nhanh các công việc liên quan đến hình thành, phát triển các cụm. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề cần có qui định thống nhất của Nhà nước để tạo môi trường thể chế cho quản lý, hoạt động, phát triển các cụm công nghiệp làng nghề, đó là: + Cần ban hành về mặt pháp qui các tiêu chí đánh giá làng nghề và cụm công nghiệp làng nghề. Nên thống nhất khái niệm: cụm công nghiệp làng nghề. + Xây dựng cơ chế cho việc thành lập, phát triển, quản lý các cụm công nghiệp làng nghề. + Nên có chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước đối với hình thành và phát triển cụm công nghiệp làng nghề. Ví dụ, Nhà nước hỗ trợ việc xây dựng hạ tầng cơ sở ngoài hàng rào, cấp điện, nước đến cụm công nghiệp làng nghề, hỗ trợ 30% kinh phí giải phóng mặt bằng trong hàng rào, hỗ trợ kinh phí lập qui hoạch chi tiết cụm công nghiệp làng nghề, ưu tiên trong việc tính giá thuê đất, hỗ trợ công tác đào và nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ; hỗ trợ công tác tiếp thị… - Phát triển các hoạt động dịch vụ với sự hỗ trợ của Nhà nước. Các hoạt động dịch vụ như: đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tư vấn chất lượng, xúc tiến thương mại, tài chính ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với đẩy nhanh sự phát triển, nâng cao hiệu quả sự phát triển các cụm công nghiệp làng nghề. Trên thực tế, các hoạt động dịch vụ trên còn rất nhỏ bé, chưa phát triển và phần lớn do cơ sở tự lo hoặc do tổ chức trung gian đảm nhận. Cần chú trọng phát triển các loại hoạt động dịch vụ trên và Nhà nước cần có sự hỗ trợ chúng thông qua các hình thức sau: + Miễn giảm phí khi thụ hưởng các dịch vụ đó. + Miễn giảm thuế và được hưởng ưu đãi cho các tổ chức dịch vụ nếu các tổ chức đó phục vụ cho phát triển làng nghề và cụm công nghiệp làng nghề. 3. 3. Tình hình phát triển, đặc điểm phân bố và định hướng phát triển cụm công nghiệp ở Việt Nam - Ở nước ta, cụm công nghiệp được phân bố ở các thị trấn, thị xã, dọc theo các trục giao thông… trong quá trình phát triển cụm công nghiệp có thể là hạt nhân để tạo nên các khu công nghiệp. - Qua hơn 17 năm xây dựng và phát triển [1991 - 2008] đến nay cả nước đã có 194 KCN, KCX được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 46.588ha. Trong đó có 110 KCN, KCX đã đi vào hoạt động, 84 KCN đang trong thời kỳ xây dựng kết cấu hạ tầng kêu gọi đầu tư. Các KCN, KCX đã thu hút được 3325 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 39,3 tỷ USD và 3082 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký 185,4 nghìn tỷ đồng. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ 17% năm 2001 lên trên 30% năm 2007. Hiện tại có khoảng 1 triệu lao động đang làm việc tại các KCN, KCX. - Hiện cả nước có 700 cụm công nghiệp đã và đang được xây dựng cơ sở hạ tầng với tổng diện tích đã lấp đầy gần 7.900 ha, tạo việc làm cho trên 500.000 lao động. Tuy nhiên, rất nhiều cụm công nghiệp chưa có quy hoạch, thiếu hành lang pháp lý quản lý việc đầu tư xây dựng; thiếu cơ quan đầu mối quản lý thống nhất; thiếu doanh nghiệp tham gia đầu tư kinh doanh hạ tầng; thiếu cơ chế hỗ trợ đầu tư… Vì vậy, việc hình thành, phát triển các cụm công nghiệp ở hầu hết các địa phương còn mang tính tự phát; hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn chậm. Xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải chưa quan tâm đúng mức khiến tình trạng ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp ngày càng nghiêm trọng. Để khắc phục tình hình, Cục Công nghiệp địa phương [Bộ Công Thương] đang xây dựng Dự thảo kế hoạch phát triển cụm công nghiệp quy mô nhỏ theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ nhằm đáp ứng yêu cầu chung của quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp theo vùng, lãnh thổ và quy hoạch phát triển công nghiệp địa phương. - Theo Dự thảo, định hướng phát triển cụm công nghiệp gồm 6 Vùng: + Vùng 1 [Vùng trung du miền núi phía Bắc]: sẽ tập trung phát triển thủy điện, chế biến nông, lâm sản [giấy, chè, gỗ, thực phẩm, đồ uống...] khai thác và chế biến khoáng sản [quặng sắt, apatit, than, đồng, chì, kẽm, thiếc, vonfram], hóa chất, phân bón, luyện kim, sản xuất vật liệu xây dựng. Chú trọng phát triển công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến. + Vùng 2 [Vùng đồng bằng sông Hồng]: Tập trung phát triển ngành cơ khí [cơ khí chế tạo, đóng tàu, thiết bị điện, các phương tiện vận tải....], nhiệt điện, phát triển ngành điện tử và công nghệ thông tin, hóa chất, luyện kim, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng. Tiếp tục phát triển nhanh công nghiệp dệt may, da giày phục vụ xuất khẩu. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. + Vùng 3 [Vùng duyên hải miền Trung]: Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, lọc, hóa dầu, đóng tàu, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, da giày. Từng bước tạo dựng, phát triển ngành điện tử, công nghệ thông tin hỗ trợ các ngành. + Vùng 4 [Vùng Tây Nguyên]: Tập trung phát triển thủy điện, công nghiệp chế biến nông lâm sản [như cà phê, cao su, bột giấy, mía đường...] và khai thác, chế biến khoáng sản, đặc biệt là boxit. + Vùng 5 [Vùng Đông Nam Bộ]: Tập trung phát triển công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, điện, chế biến nông, lâm, hải sản và đặc biệt là công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm, hóa chất, hóa dược, công nghiệp dệt may, da giày chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, phát triển các sản phẩm có hàm lượng trí thức cao. Giảm dần tỷ trọng các ngành sử dụng nhiều lao động. + Vùng 6 [Vùng đồng bằng sông Cửu Long]: Tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản hướng vào xuất khẩu; phát triển các ngành công nghiệp sử dụng khí, phát triển ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sau thu hoạch và bảo quản và công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, cơ khí đóng tàu. Theo Dự thảo, việc quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp phải đạt các tiêu chí: ở xa khu dân cư, cuối hướng gió so với khu dân cư, không ảnh hưởng xấu tới việc ổn định đất nông nghiệp, cảnh quan của các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, gần các đầu mối giao thông, gần nguồn điện, nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ sản xuất kinh doanh khác. Chi phí đầu tư xây dựng mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật và giá đền bù thấp, giá trị sử dụng đất cao. Việc xây dựng cụm công nghiệp cũng phải đảm bảo các yêu cầu: Đảm bảo sự lồng ghép hài hòa giữa phát triển cụm công nghiệp với phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, gắn việc bố trí các cơ sở công nghiệp với cơ sở dịch vụ để khai thác lợi thế và thu hút đầu tư. Gắn với quy hoạch phát triển các làng nghề, quy hoạch phát triển các đô thị, thị tứ, khu du lịch để thu hút đầu tư, khách tham quan du lịch và tiêu thụ sản phẩm tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn. Riêng cụm công nghiệp phục vụ cho đối tượng làng nghề cần quan tâm đến các tập quán văn hóa, sinh hoạt sẵn có của làng nghề, gắn với quy hoạch tổng thể không gian của khu vực và làng, xã. 4. Khu công nghiệp Trong Nghị định 192/CP ngày 25/12/1994 của Chính phủ đã nêu lên định nghĩa của KCN Việt Nam như sau: KCN quy định trong quy chế này là khu công nghiệp tập trung [KCNTT] do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lí xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. 4.1. Phân loại khu công nghiệp ở Việt Nam Theo nghiên cứu của Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư về thực trạng các KCN của nước ta năm 1995 đã phân chia KCN thành 5 nhóm: 4.1.1. Khu vực tập trung công nghiệp dựa trên cơ sở một xí nghiệp liên hợp Các KCN loại này bao gồm: liên hợp gang thép Thái Nguyên, liên hợp dệt Nam Định, liên hợp dệt 8/3, liên hợp giấy Bãi Bằng. Đặc điểm: - Các xí nghiệp [phân xưởng] tập trung vào một lãnh thổ không lớn, với diện tích trung bình là 50 - 60 ha. - Các xí nghiệp [phân xưởng] có môi liên hệ chặt chẽ với nhau về công nghệ trong quá trình tạo ra sản phẩm cuối cùng, ngoài việc sử dụng chung kết cấu hạ tầng sản xuất, dịch vụ xã hội, nhà ở cho cán bộ công nhân viên. - Có Ban quản lí thống nhất để quản lí và chỉ đạo hoạt động sản xuất của toàn KCN. 4.1.2. Khu vực tập trung công nghiệp được hình thành dựa vào các xí nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ về kỹ thuật và công nghệ theo một chu trình sản xuất năng lượng Điển hình như: KCN Bắc Giang, KCN Việt Trì... Đặc điểm: - Đa phần các xí nghiệp có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp về công nghệ từ khâu cung cấp tư liệu sản xuất cho xí nghiệp chính tới khâu sử dụng thành phẩm hoặc phế liệu ở xí nghiệp bổ trợ. Từ xí nghiệp chính hình thành các xí nghiệp bổ trợ theo dạng cây. Số lượng nhánh của dạng cây nhiều hay ít phụ thuộc vào sự tiến bộ của khoa học – công nghệ. - Các xí nghiệp tập trung trên một lãnh thổ nhất định với diện tích không lớn lắm. - Không có Ban quản lí chung cho toàn bộ KCN, mỗi xí nghiệp công nghiệp nằm trong KCN do Bộ, ngành trực thuộc quản lí. 4.1.3. Khu vực tập trung công nghiệp bao gồm cac xí nghiệp chỉ sử dụng chung [một phần hay toàn bộ] kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội mà không có mối liên hệ chặt chẽ về công nghệ Đại diện cho loại hình này là khu Thượng Đình, Đông Anh, Gò Đầm, Biên Hoà, Cần Thơ, Đà Nẵng. Đặc điểm: các xí nghiệp được phân bố trên một lãnh thổ nhất định, có hai dạng khác nhau: - Các khu vực tập trung công nghiệp như Thượng Đình, Đà Nẵng, Biên Hoà, Cần Thơ: các xí nghiệp tập trung gần nhau, trên một lãnh thổ từ 50 - 200 ha và sử dụng chung kết cấu hạ tầng nhưng lại khác nhau về quy trình công nghệ và sản phẩm. Trước khi đất nước thống nhất [1975], mỗi KCN ở miền Nam có một cơ quan quản lí riêng; sau giải phóng, các xí nghiệp trong từng KCN do Bộ, ngành trực thuộc quản lí. - Các khu vực tập trung công nghiệp như Đông Anh, Gò Đầm: các xí nghiệp phân bố không gần nhau mà trải ra trên lãnh thổ tương đối rộng, một số xí nghiệp sử dụng riêng kết cấu hạ tầng. Mặc dù có quy hoạch KCN nhưng chỉ mang tính định hưóng chứ không phải quy hoạch tập trung các xí nghiệp trong một không gian có ranh giới rõ ràng. 4.1.4. Khu vực tập trung công nghiệp dựa trên nền tảng chuyên môn hoá khai khoáng và các xí nghiệp dịch vụ có liên quan, với việc sử dụng chung kết cấu hạ tầng Điển hình cho loại hình này đó là KCN Hòn Gai – Bãi Cháy, Cẩm Phả - Dương Huy, Uông Bí - Mạo Khê, khai thác apatit Lào Cai... Đặc điểm: - Sự rộng lớn về diện tích lãnh thổ và không có ranh giới rõ ràng. - Sự gắn bó với nhau về qúa trình sản xuất: Trong khu vực tập trung công nghiệp gồm các xí nghiệp chuyên môn hoá, các xí nghiệp phục vụ cho khai thác có quan hệ mật thiết với nhau. Ngoài ra, còn có các xí nghiệp dịch vụ đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho đội ngũ công nhân. - Sự thống nhất về kết cấu hạ tầng như: giao thông nội bộ, bến bãi, cảng, cấp điện nước... - Sự thống nhất về quản lí: Giữa các xí nghiệp chuyên môn hoá và phục vụ chuyên môn hoá có một cơ quan quản lí thống nhất, ví dụ: đối với ngành than có Tổng Công ty than. 4.1.5. Các khu vực tập trung công nghiệp hình thành do sự tập hợp ngẫu nhiên của các xí nghiệp trên cùng một lãnh thổ. Điển hình: khu Trương Định – Đuôi Cá, Minh Khai – Vĩnh Tuy, Cầu Bươu, Gia Lâm – Yên Viên, Văn Điển – Pháp Vân... Đặc điểm: - Không có quy hoạch chung thống nhất, các xí nghiệp do các Bộ và ®ịa phương tự xây dựng trên một khu vực nhất định, không có quy hoạch tổng thể, thường là do lịch sử để lại. - Các xí nghiệp có thể nằm cạnh nhau, nhưng cũng có thể cách nhau khá xa, sử dụng riêng kất cấu hạ tầng, không có liên hệ gì về mặt sản xuất và quản lí. - Nằm xen kẽ với khu dân cư. 4.1.6. Các hình thức khác của khu công nghiệp [hay KCNTT]

  1. Khu chế xuất [KCX] Xuất phát từ yếu tố khách quan của công cuộc đổi mới và xây dựng kinh tế, đặc biệt là yêu cầu thu hút đầu tư nước ngoài, tạo công ăn việc làm cho người lao động, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, đồng thời trên cơ sở bài học kinh nghiệm của các nước đi trước, tháng 10/1991 Chính phủ đã ban hành Quy chế KCX, cho phép thành lập KCX đầu tiên tại các địa bàn thích hợp. KCX Việt Nam được xác định như sau: “KCX là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, bao gồm một hoặc nhiều xí nghiệp, có ranh giới địa lí xác định, do Chính phủ thành lập” [điều 2, luật bổ sung sửa đổi luật đầu tư tháng 12/1992]. Đặc điểm của KCX Việt Nam: - Việc thành lập các KCX phải được chính phủ quyết định. Về quy mô KCX có thể gồm một hoặc nhiều xí nghiệp. Nghĩa là, KCX có thể nhỏ giới hạn trong phạm vi một xí nghiệp hoặc có thể rất lớn gồm hàng trăm xí nghiệp. - Người nước ngoài được Nhà nước cho phép khuyến khích đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng. - Quản lí Nhà nước KCX thực hiện theo “chế độ một cửa”. Ban quản lí KCX được các ngành liên quan uỷ quyền để thực hiện các chức năng quản lí nhà nước trong KCX, bao gồm giải quyết các thủ tục hành chính, cấp giấy phÐp đầu tư và kinh doanh, giấy phép xây dựng, vận hành nhà máy... - Mức thuế lợi tức với xí nghiệp KCX là 10% [nếu sản xuất] và 15% [nếu làm dịch vụ]. - Thời gian hoạt động của xí nghiệp KCX cho phép tối đa là 50 năm. Là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp và là công cụ kinh tế hiệu quả để tiến hành công nghiệp hóa, KCX đối với nước ta còn tương đối mới mẻ. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc Đổi mới, nhất là việc thu hút đầu tư nước ngoài và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nước ngoài vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chính phủ đã cho phép thành lập các KCX từ đầu những năm 90, KCX Tân Thuận là KCX đầu tiên ra đời ở nước ta. Hiện nay cả nước có 6 KCX, đó là: Tân Thuận, Linh Trung1, Linh Trung 2, Hải Phòng 96, Đà Nẵng, Cần Thơ.
  2. Khu công nghệ cao [KCNC] - KCNC là nơi tập trung các tổ chức hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao và công nghiệp công nghệ cao. Bao gồm 3 thành phần chủ chốt, đó là: các tổ chức nghiên cứu và phát triển KCNC; các cơ sở đào tạo huấn luyện; các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ cao nhằm tiếp thu, cải tiến công nghệ được chuyển giao, sáng chế công nghệ cao và sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Đây là khu vực địa lí mà ở đó mật độ tri thức rất cao, nơi có đủ điều kiện vật chất để khép kín quy trình chuyển giao, tiếp thu và sản sinh ra công nghệ. - KCNC là nơi tiếp thu công nghệ cao của thế giới, là nơi làm việc có đủ điều kiện của các nhà khoa học quốc tế. Nơi đây trong giai đoạn đầu tiên sẽ tiếp thu chuyển giao công nghệ, sau đó là sáng tạo công nghệ cao, các hãng công nghệ hàng đầu thế giới tiến hành chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp ngay trong KCNC. Quá trình chuyển giao thực hiện ngay chính tại khu vực sản xuất, giúp cho việc tiếp thu và sử dụng công nghệ cao có hiệu quả. - Với KCNC, tiềm lực công nghệ quốc gia được tăng cường về cả lượng lẫn chất. Công nghệ cao được chuyển giao hoặc nhập khẩu về sẽ được các chuyên gia công nghệ tiếp thu và phát triển. Các kiến thức và kĩ năng học được sẽ được chuyển tải đến các khu vực khác nhau của đất nước. - KCNC là nơi tạo ra môi trường thuận lợi để mọi nguồn lực trong nước hợp tác nghiên cứu với nhau và với nước ngoài, thúc đẩy quá trình tạo công nghệ mới , hỗ trợ đổi mới công nghệ trong mọi thành phần kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ cao. KCNC cũng là cầu nối giữa nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ sản xuất và kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. KCNC Hoà Lạc được chính phủ quyết định thành lập năm1998 với diện tích lên tới 200ha, trong đó diện tích cho thuê là 150 ha. Ngoài ra, KCN còn có một biến dạng khác đó là khu kinh tế mở, hiện nay nước ta có khu kinh tế mở Chu Lai ở tỉnh Quảng Nam với diện tích rất lớn. 4.2. Tình hình phát triển các khu công nghiệp tập trung ở nước ta Theo số liệu của Ban quản lí các KCN Việt Nam, cho đến hết tháng 7/2002 cả nước đã có 72 KCNTT, KCX và KCNC được thành lập ở 30 tỉnh, thành phố với tổng diện tích là 15.817,42 ha, bao gồm: 6 KCX, 1 KCNC và 65 KCNTT. Về quy mô, trung bình mỗi KCN có diện tích xấp xỉ 219,7 ha. KCN có diện tích lớn nhất là KCN Phú Mỹ I [Bà Rịa - Vũng Tàu] thành lập năm 1998 với diện tích là 954,4 ha và KCN có diện tích nhỏ nhất là KCN Bình Chiểu [TP. Hồ Chí Minh] được thành lập năm 1996 có diện tích 27,34 ha. Về hình thức đầu tư kết cấu hạ tầng có 2 khu với 100% vốn đầu tư nước ngoài, đó là KCN Đài Tư - Hà Nội với 100% vốn Đài Loan và KCN Đình Vũ [Hải Phòng] với vốn đầu tư của Mỹ, Bỉ, Thái Lan. Có 13 khu liên doanh, số còn lại là vốn trong nước từ các doanh nghiệp trong nước đến các công ty cổ phần. Một điều đáng chú ý đó là có sự khác nhau giữa các KCN có vốn đầu tư từ nước ngoài và KCN có vốn đầu tư trong nước. So với các khu có vốn của nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng, các KCN sử dụng vốn trong nước có diện tích lớn nhưng vốn đầu tư cho 1ha lại ít hơn. Vì vậy, ở các khu có vốn đầu tư nước ngoài kết cấu hạ tầng đảm bảo chất luợng cao hơn và có nhiều Hình 9. Khu công nghiệp Đại An [Tp.Hải Dương] thuận lợi cho việc thu hút đầu tư vào sản xuất. Về tình hình thu hút vốn đầu tư vào sản xuất, cho đến cuối tháng 9/2008 cả nước đã có 194 KCN, KCX, KCNC được thành lập với diện tích đất tự nhiên gần 46.000 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 30.700 ha [chiếm 65% diện tích đất tự nhiên]. Hiện có 110 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đát tự nhiên gần 26.400 ha, hơn 80 KCN còn lại đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Tính đến tháng 7/2002 đã có 1.058 số dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư là 8.911,785 triệu USD, còn đầu tư trong nước là 888 dự án với tổng số vốn đầu tư là 40.806,66 tỉ Đồng, vốn thực hiện là 13.453,97 tỉ Đồng. Quy mô trung bình của một dự án đầu tư nước ngoài trong KCN là 8,423 triệu USD/dự án còn các dự án trong nước là 45,95 tỉ đồng/dự án. Các dự án trong KCN chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ, như: dệt, may mặc, nhựa và lắp ráp điện tử, cơ khí chính xác bởi ưu điểm của những ngành này là vốn đầu tư ít và thu hồi vốn nhanh hơn các ngành công nghiệp nặng. Ngoài công nghiệp nhẹ, điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng, các KCN trong chừng mực nhất định còn thu hút cả một số dự án công nghiệp nặng, góp phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà. Về lao động trong KCN, các KCN thu hút 292.355 lao động của địa phương làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp. Đó là chưa kể số lao động làm việc gián tiếp thông qua các khâu xây dựng cơ bản và phụ trợ [sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho KCN, gia công, dịch vụ...]. Tuy nhiên, việc cung cấp lao động đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa số lao động dư thừa đông đảo cần tạo việc làm ở địa phương với số lao động có đủ tay nghề, kỹ thuật còn quá mỏng. Mặt khác, việc thu hút lao động vào các KCN đã bước đầu dẫn tới hiện tượng di dân, chủ yếu là từ nông thôn tới tạo nên sức ép về nhiều mặt cho các địa phương tập trung các khu công nghiệp. Một hiện tượng đáng chú ý trong hai năm gần đây đó là tình trạng lao động ở miền Bắc bỏ việc ở các KCN sau những đợt ra Bắc nghỉ Tết. Hiện tượng đó là do tình trạng nợ lương công nhân, các chế độ cho công nhân không thoả đáng. Để giải quyết vấn đề này nhằm đảm bảo lực lượng lao động cho các KCN đòi hỏi các Ban quản lí KCN phải có những biện pháp cụ thể và hiệu quả trong việc chi trả lương cũng như chính sách đãi ngộ cho lao động trong các KCN. Ngoài việc thu hút lao động, các KCN còn tạo sức mua của toàn xã hội. 4.3. Ý nghĩa 4.3.1. Những tác động tích cực của khu công nghiệp đối với nền kinh tế Trong những năm qua các KCN, có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương theo hướng CNH - HĐH, đa dang hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN tăng đều qua các năm, và tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiêp KCN đều vượt so với tốc độ gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN thời kì 1996 - 2000 đạt khoảng 9,5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 20%/năm. Trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN [kể cả trong nước và nước ngoài] đạt khoảng 44,4 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với 5 năm trước đây. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và mức 17% năm 2001 lên khoảng 28% năm 2005. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp KCN trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong thời gian qua. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN thời kỳ 5 năm 1996 - 2000 đạt 6,2 tỷ USD tăng bình quân khoảng 18%/ năm; trong 5 năm tiếp sau 2001 - 2005 giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên gần 20% năm 2005. Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN thời kỳ 2001 - 2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong 5 năm 1996 - 2000. Các doanh nghiệp KCN bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng nộp ngân sách của các doanh nghiệp KCN tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/ năm và gấp 6 lần so với 5 năm 1996 - 2000. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến hiện đại. Trong đó, đặc biệt phải kể đến những dự án công ngiệp kỹ thuật cao với 11 doanh nghiệp đều tập trung ở KCN với tổng vốn đầu tư hơn 1 tỷ USD [phần lớn là của Nhật Bản] như công ty trách nhiệm hữu hạn Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel,... Các dự án đầu tư nước ngoài vào KCN không những góp phần nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của các doanh nghiệp KCN mà còn mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư từng bước nâng cao vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực. 4.3.2. Những hạn chế của các khu công nghiệp Việt Nam Mặc dù trong thời gian qua các KCN đã khẳng định những thành công và đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nó cũng xuất hiện những hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển KCN đó là: - Chất lượng quy hoạch chưa cao. Việc xây dựng quy hoạch phát triển KCN chưa thực sự gắn với quy hoạch ngành, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và trên cả nước, chưa gắn kết đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. - Chất lượng lao động trong các KCN chủ yếu là các lao động thủ công, trình độ chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế. Nhà ở, chế độ bảo hộ cho người lao động trong các KCN còn hạn chế. - Công tác phát triển, sử dụng, lấp đầy các KCN còn gặp nhiều khó khăn do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như: công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai chậm và gặp nhiều khó khăn, suất đầu tư quá cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN chưa phát triển. Công tác tái định cư và ổn định đời sống người dân sau khi bị thu hồi đất tại nhiều KCN tiến hành chưa tốt. - Công tác quản lý và bảo vệ môi trường chưa tốt. Theo số liệu thống kê trong số 134 KCN hiện được thành lập [tháng 06/2006] chỉ có 33 KCN đã xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, 10 KCN đang xây dựng, các KCN còn lại chưa có. 4.4. Định hướng phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2010 - mục tiêu và giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển KCN 2006 - 2010 4.4.1 Mục tiêu phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN đến 2010 - Phát triển các khu công nghiệp đảm bảo hình thành hệ thống các khu công nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng phát triển công nghiệp quốc gia. Hình thành hệ thống các khu công nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn. - Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp tập trung đã được thành lập và đang đầu tư xây dựng hạ tầng. Phấn đấu đến 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các khu công nghiệp đã được thành lập; thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các khu công nghiệp tập trung trên các vùng lãnh thổ, các địa phương với tổng diện tích tăng thêm khoảng 25.000 ha, đó là nâng số lượng KCN cả nước lên 128, trong đó thành lập mới 101 KCN và nâng cấp 28 KCN với tổng diện tích là 22.813 ha, cụ thể ở các vùng kinh tế như bảng 1. Bảng 1. Số lượng các khu công nghiệp theo vùng kinh tế 2010 TT Vùng Tổng số KCN Trong đó Tổng Thành lập mới Mở rộng Diện tích [ha] 1 Trung du và miền núi Bắc Bộ 16 15 1 2.058 2 Đồng bằng sông Hồng 31 25 6 6.084 3 Duyên hải miền Trung 30 22 8 4.834 4 Tây Nguyên 3 3 0 354 5 Đông Nam Bộ 23 18 5 4.381 6 Đồng bằng sông Cửu Long 25 18 7 5.102 Cả nước 128 101 27 22.813 - Đưa tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ mức 26% hiện nay lên khoảng 35% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp từ 19% giá trị xuất khẩu quốc gia hiện nay lên 32% vào năm 2010. Dưới đây là mục tiêu cụ thể: - Tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới một cách có chọn lọc khoảng 25.000 ha đất khu công nghiệp, phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%. - Tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp, phấn đấu thu hút thêm khoảng 4.000 dự án [bao gồm cả dự án trong nước và nước ngoài] đăng ký đầu tư và triển khai thực hiện sản xuất kinh doanh trong các khu công nghiệp; phấn đấu đẩy nhanh tốc độ giải ngân, thực hiện đầu tư khoảng 2 tỷ USD/năm [cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài]. - Sau thời kỳ 2010, quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý dự trữ diện tích đất công nghiệp; hoàn thiện về cơ bản mạng lưới khu công nghiệp trên toàn lãnh thổ; quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các khu công nghiệp đã được thành lập trước đây theo hướng đồng bộ hoá, hình thành những “công viên công nghiệp” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp. - Xây dựng khu vực xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực bố trí tập trung các khu công nghiệp như tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung... hoàn chỉnh các công trình kết cấu hạ tầng trong các khu công nghiệp hiện đang hoạt động, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải. 4.4.2. Các cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện kế hoạch - Nâng cao chất lượng triển khai thực hiện quy hoạch các khu công nghiệp. + Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khu công nghiệp của các địa phương theo cơ chế triển khai do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gắn kết giữa quy hoạch khu công nghiệp với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch khu đô thị - dân cư, quy hoạch sử dụng đất. + Trong quá trình triển khai quy hoạch, chú trọng việc khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, bao gồm cả đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp. + Xây dựng các tiêu chí thành lập khu công nghiệp trên cơ sở xem xét toàn diện điều kiện thực tế của các địa phương, cân nhắc toàn bộ các yếu tố môi trường, dân cư, lao động, đất đai, giao thông, tình hình phát triển kinh tế và thu hút đầu tư... + Rà soát chi tiết quy hoạch sử dụng đất khu công nghiệp trên địa bàn cả nước, xây dựng quy hoạch sử dụng đất cần đảm bảo mức độ sử dụng đất nông nghiệp để chuyển đổi thành đất khu công nghiệp hợp lý, đảm bảo cân đối giữa các ngành kinh tế trên địa bàn. + Xây dựng khu công nghiệp phải gắn với thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu vực. + Về khả năng thu hút đầu tư lấp đầy khu công nghiệp, trước mắt, tập trung thu hút đầu tư để lấp đầy khu công nghiệp đã được thành lập. Phấn đấu trong vài ba năm tới sẽ thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, để lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp của các khu đó thành lập. - Thành lập mới có chọn lọc các khu công nghiệp gắn với mục tiêu phát triển công nghiệp theo vùng. Khi xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp, cần phải xác định chi tiết cơ cấu công nghiệp, khai thác thế mạnh về nguồn lực tại chỗ của từng vùng, địa phương như vùng nguyên liệu nông, lâm nghiệp, khai thác vật liệu xây dựng, điện năng... từ đó có phương hướng tận dụng lợi thế của từng vùng, địa phương. Ưu tiên phát triển khu công nghiệp ở những địa phương có thế mạnh ở một số ngành công nghiệp và phân chia một cách hợp lý mục tiêu thu hút đầu tư giữa các địa phương để hạn chế tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. - Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp. Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư; chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn và đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia và các doanh nghiệp vừa, nhỏ. Xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp. - Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề. Việc đào tạo và cung cấp lao động, trước hết phải căn cứ vào định hướng phát triển các ngành trên các vùng và trong các khu công nghiệp để có phương án bố trí hợp lý và đáp ứng được yêu cầu.. - Cải cách thủ tục hành chính Về thẩm định và cấp phép đầu tư: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” trong thủ tục hành chính xét duyệt thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư. Về xuất nhập khẩu: Tiến hành nhanh chóng các thủ tục xét duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu, thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp. - Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường. Hoàn chỉnh, nâng cấp, cải tạo các cơ sở hạ tầng của các khu công nghiệp hiện có, giải quyết triệt để vấn đề thu gom và xử lý nước thải từ các khu công nghiệp. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp trước và sau khi đầu tư vào khu công nghiệp về vấn đề môi trường. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp phải đăng ký đảm bảo về môi trường trước khi đi vào hoạt động. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các khu công nghiệp; có biện pháp thưởng, phạt thích đáng những doanh nghiệp vi phạm pháp luật về môi trường. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với các doanh nghiệp và địa phương về bảo vệ môi trường. - Hoàn thiện mô hình tổ chức, quản lý khu công nghiệp. Cần phải xác định rõ các biện pháp quản lý nhà nước về phát triển các khu công nghiệp nhằm phát triển các khu công nghiệp một cách hài hoà và có hiệu quả. Để thực hiện tốt công tác quản lý phát triển các khu công nghiệp cần phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước nói chung và khu công nghiệp nói riêng, hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan đến khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho các doanh nghiệp đầu tư vào trong các khu công nghiệp. 5. Trung tâm công nghiệp 5.1. Phân loại trung tâm công nghiệp ở nước ta Trung tâm công nghiệp có nhiều cách phân loại khác nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau. Ví dụ: - Dựa vào vai trò đối với sự phân công lao động theo lãnh thổ có: + Trung tâm có ý nghĩa quốc gia: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. + Trung tâm có ý nghĩa vùng: Hải Phòng, Đà Nãng, Cần Thơ. + Trung tâm có ý nghĩa tỉnh: Việt Trì, Thái Nguyên... - Dựa vào tính chất chuyên môn hóa và đặc điểm sản xuất có: + Trung tâm công nghiệp đa ngành: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. + Trung tâm chuyên môn hóa: Hóa chất - Việt Trì; Gang thép – Thái Nguyên; Dệt - Nam Định... - Dựa vào giá trị sản xuất có thể chia ra: + Trung tâm công nghiệp rất lớn: TP Hồ Chí Minh + Trung tâm công nghiệp lớn: Hà Nội, Hải Phòng, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu... + Trung tâm công nghiệp trung bình: Việt Trì, Đà Nãng, Cần Thơ, Nha Trang... + Trung tâm công nghiệp nhỏ: Nam Định, Bắc Giang, Thái Nguyên, Quy Nhơn...

5.2. Hiện trạng phát triển của trung tâm công nghiệp Các trung tâm công nghiệp ở Việt Nam phát triển rất khác nhau về quy mô giá trị sản xuất và tính chất chuyên môn hóa dựa trên cơ sở điều kiện của mỗi trung tâm, như giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đều là hai trung tâm công nghiệp lớn nhưng giữa hai trung tâm này có cơ cấu ngành, quy mô giá trị sản xuất và các điều kiện để phát triển công nghiệp rất khác nhau. 5.2.1. Thành phố Hồ Chí Minh - Hiện trạng: + Là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước về giá trị sản xuất công nghiệp, đạt quy mô giá trị sản xuất trên 50 nghìn tỉ đồng + Có cơ cấu ngành khá hoàn chỉnh, với nhiều ngành chuyên môn hóa: nhiệt điện, luyện kim đen, luyện kim màu, cơ khí điện tử, sản xuất ô tô, hóa chất, chế biến thực phẩm, dệt may, sản xuất giấy, xenlulô. + Có rất nhiều các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất hoạt động rất có hiệu quả như Tân Thuận, Linh Trung... - Nguyên nhân: Do Thành phố Hồ Chí Minh hội tụ khá đầy đủ điều kiện thuận lợi nhất để phát triển công nghiệp + Vị trí địa lí: Nằm liền kề với các vùng như Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên cung cấp nguyên liệu nông sản, lâm sản, thủy sản thuận lợi phát triển các ngành công nghiệp chế biến. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đầu mối GTVT lớn nhất cả nước với sân bay Tân Sơn Nhất và cảng Sài Gòn, tạo nhiều điều kiện cho vùng đẩy mạnh giao lưu với các vùng trong cả nước và với các nuớc trong và ngoài khu vực. + Vai trò: Tp. Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn nhất cả nước + Cơ sở nguyên liệu phong phú: Nằm trong vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất cả nước + Cơ sở hạ tầng phát triển mạnh và hoàn thiện nhất cả nước, đầu mối giao thông quan trọng nhất của các tỉnh phía Nam. Cảng Sài Gòn và sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất hiện đại nhất nước ta + Là thành phố có dân số đông nhất cả nước, có lực lượng lao động có kĩ thuật đông đảo. + Có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài rất lớn, vốn đầu tư thời kì 1988 – 2005 đạt 15,9 tỉ USD. 5.2.2. Hà Nội - Hiện trạng: + Là trung tâm công nghiệp lớn về giá trị sản xuất công nghiệp, đạt quy mô giá trị sản xuất từ 10 - 50 nghìn tỉ đồng + Có cơ cấu ngành khá đa dạng, trong đó có một số ngành lâu đời mang tính truyền thống, các ngành chuyên môn hóa: cơ khí, luyện kim đen, cơ khí điện tử, sản xuất ô tô, hóa chất, chế biến thực phẩm, dệt may, vật liệu xây dựng. + Có nhiều các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu công nghệ cao hoạt động có hiệu quả. - Nguyên nhân: Do Hà Nội hội tụ khá đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp. + Vị trí địa lí: Hà Nội nằm ở trung tâm của Đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. + Vai trò: Thủ đô của cả nước. + Cơ sở nguyên liệu phong phú: Nằm trong vùng trọng điểm lương thực thực phẩm lớn thứ hai của cả nước. + Cơ sở hạ tầng phát triển mạnh, là đầu mối giao thông quan trọng nhất cảu các tỉnh phía Bắc với nhiều tuyến giao thông huyết mạch về đường sắt, đường ô tô, đường hàng không... + Là thành phố có dân số đông thứ hai cả nước, có lực lượng lao động có kĩ thuật dồi dào. + Có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài khá lớn, vốn đầu tư thời kì 1988 – 2005 đạt 11,5 tỉ USD. 6. Dải công nghiệp 6.1. Khái niệm Dải công nghiệp được hiểu là: Sự đan xen kéo dọc theo các trục đường giao thông quan trọng của các điểm công nghiệp, cụm công nghiệp và các khu công nghiệp. 6.2. Hiện trạng phát triển - Xuất hiện ở các khu đô thị lớn. - Phân bố kéo dài theo dạng tuyến. Ở nước ta dải công nghiệp chưa được hình thành rõ nét, thường mới chỉ là những khu vực tập trung xung quanh ở các thành phố lớn, như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh. Ví dụ như là: Dải Hà Nội - Hải Phòng chạy dọc theo quốc lộ 5 với các điểm công nghiệp độc lập với nhau, Hà Nội - Quảng Ninh, hay Tp. Hồ Chí Minh - Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh - Bình Dương, Bình Phước… Sự phát triển của các dải công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát công nghiệp của lãnh thổ, nhất là các tuyến giao thông huyết mạch và nhiều yếu tố khác. 7. Vùng công nghiệp Một trong những đặc điểm quan trọng của sản xuất công nghiệp là tính tập trung trong không gian khác hẳn với tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Nếu tổ chức lãnh thổ công nghiệp hợp lý, ngoài ý nghĩa kinh tế, còn có nhiều ý nghĩa khác [môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên, lao động…]. Trong nhiệm vụ nặng nề này, có công sức không nhỏ của việc phân vùng công nghiệp. Mỗi một ngành công nghiệp thường được phân bố trên một phạm vi lãnh thổ nhất định, với đầy đủ các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, thuận lợi cho việc phát triển. Đó là vùng phân bố của ngành thường gọi là vùng ngành. Các vùng ngành thường gặp là khai thác than, vùng khai thác dầu khí, vùng khai thác quặng kim loại đen… Trong thực tế, trên một lãnh thổ nhất định có những điều kiện thuận lợi cho việc phân bố các xí nghiệp không chỉ của một ngành mà của một số ngành công nghiệp. Do đó các vùng ngành chồng chéo lên nhau và là thành phần của vùng công nghiệp tổng hợp, được gọi là vùng công nghiệp. Đặc điểm cơ bản của vùng công nghiệp là: Có một lãnh thổ rộng lớn, trong đó bao gồm nhiều điểm công nghiệp, khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp, giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau về mặt sản xuất, có những nét tương đồng trong quá trình hình thành [chẳng hạn cùng sử dụng một hay một số loại tài nguyên, hoặc có vị trí thuận lợi, hay trên cơ sở sử dụng nhiều nguyên liệu, cùng sử dụng chung hệ thống năng lượng, giao thông vận tải…]. Trong vùng công nghiệp bao giờ cũng có một vài ngành công nghiệp chủ yếu, tạo nên hướng chuyên môn hoá của vùng công nghiệp đó. Ở Việt Nam có 6 vùng công nghiệp được quy hoạch từ nay đến năm 2020: - Vùng 1 gồm 14 tỉnh: Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Hoà Bình, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái tập trung phát triển thuỷ điện, chế biến nông, lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, hoá chất, phân bón, luyện kim, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến. - Vùng 2 gồm 14 tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hoá, Vĩnh Phúc được định hướng tập trung phát triển ngành cơ khí nhiệt điện, phát triển ngành điện tử và công nghệ thông tin, hoá chất, luyện kim khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, tiếp tục phát triển nhanh công nghiệp dệt may, da giầy phục vụ xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. - Vùng 3 gồm 10 tỉnh: Bình Định, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, lọc và hoá chất, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu xây dựng và dệt may, da giầy, ngành điện tử và công nghiệp thông tin - Vùng 4 gồm 4 tỉnh: Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum tập trung phát triển thuỷ điện, công nghiệp chế biến nông, lâm sản và khai thác chế biến khoáng sản. - Vùng 5 gồm 8 tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh, Tây Ninh tập trung phát triển công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, điện, chế biến nông, lâm sản và hải sản, đặc biệt là công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm, hoá chất, hoá dược, phát triển công nghiệp dệt may, da giầy chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, phát triển công nghiệp trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, phát triển các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. - Vùng 6 gồm 13 tỉnh: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, Kiên Giang, Long An, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản hướng vào xuất khẩu, các ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên, ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp đặc biệt là công nghiệp sau khi thu hoạch và bảo quản, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, cơ khí đóng tàu. 7.1. Vùng Công Nghiệp Trung du và miền núi Bắc Bộ [ trừ tỉnh Quảng Ninh] 7.1.1. Các nguồn lực phát triển

  1. Thế mạnh Trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng có nhiều thế mạnh để phát triển công nghiệp. * Khoáng sản: Trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng giàu tài nguyên khoáng sản bậc nhất nước ta. Ở đây có nhiều loại khoáng sản quan trọng có ý nghĩa quốc gia bao gồm cả kim loại đen [sắt], kim loại màu [đồng, chì, kẽm, thiếc…], khoáng sản năng lượng [than], phi kim loại [apatit…]. Chúng được coi là nguồn tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp. - Ở vùng Tây Bắc gồm có: + Than: có trữ lượng khoảng 10 triệu tấn, các mỏ than đáng kể là Suối Bàng, Suối Hoa, Quỳnh Nhai, Hang Mơn - Tà Văn. + Niken: hiện nay đã phát hiện được 4 mỏ Niken và hàng chục điểm quặng, trong đó có 3 mỏ đáng quan tâm là Bản Phúc, Bản Sang, Tạ Khoa. + Đồng, vàng: được phát hiện ở khu mỏ Vạn Sài- Suối Chát, với tổng trữ lượng ước khoảng 980 tấn đồng [cấp C2 và dự báo đạt hơn 270.000 tấn] ở vùng Suối Chát - Suối Đùng. Cùng với đồng còn có vàng trữ lượng khoảng 4,4 tấn. Vàng sa khoáng phân bố dọc sông Đà và một số chi lưu, trên triền sông và huyện Mường Tè, Phong Thổ, Quỳnh Nhai, Sìn Hồ, Thuận Châu… + Đất hiếm: có tiềm năng rất lớn với quy mô loại lớn của Việt Nam, với các mỏ tiêu biểu như sau: Mỏ đất hiếm Đông Rao thuộc xã Bản Hon, Bản Giang huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu, đã phát hiện được 60 thân quặng dài 1000m. Trữ lượng được xác định khoảng 5,5 triệu tấn. Cùng với đất hiếm còn có florit 6,1 triệu tấn, barit 12,7 triệu tấn Mỏ đất hiếm Năm Xe thuộc loại đất hiếm nhóm nặng. Tính riêng trữ lượng trong vỏ phong hoá các đá Granitoit đã có 874.660 tấn ôxyt đất hiếm [nhóm nặng] + Tan và asbet: Tan và asbet là những loại khoáng sản phi kim loại, mang tính đặc thù của vùng Tây Bắc. Tan là khoáng vật silicatmagiê, được sử dụng nhiều trong công nghệ gốm sứ trong sản xuất giấy, sơn, cao su, dược liệu. Đến nay đã xác định được 3 vị trí có Tan trong đó đáng kể là mỏ Tà Phù có trữ lượng khoảng 231.000 tấn và mỏ Làng Trụ có trữ lượng 1780 tấn cấp C2. Asbet có tổng trữ lượng khoảng 100.000 tấn, được sử dụng trong công nghiệp sản xuất vật liệu cách điện, cách nhiệt, cách âm, chống cháy, chịu được axit và kiềm, dùng để sản xuất găng tay, quần áo chống cháy trong sản xuất vật liệu xây dựng và giao thông vận tải. + Nước nóng và nước khoáng ở Tây Bắc phát hiện được 80 mỏ nước nóng và nước khoáng trong đó có 16 điểm đã được điều tra kỹ và có giá trị sử dụng, tập trung ở Kim Bôi [ Hoà Bình, Điện Biên, Phong Thổ, Tuần Giáo, Mường Lay [ Lai Châu] và Mường La, Bắc Yên, Phù Yên, Sông Mã [Sơn La]. + Ngoài ra đá vôi cũng là 1 nguồn tài nguyên quan trọng của vùng. - Ở vùng Đông Bắc [trừ Quảng Ninh]. Bảng 2. Một số tài nguyên khoáng sản chủ yếu ở vùng Đông Bắc Khoáng sản Trữ lượng công nghiệp % so với cả nước Phân bố Than Mỡ 7,1 triệu tấn 56 Phấn Mễ, Làng Cẩm [Thái Nguyên] Than nâu 100 triệu tấn - Na Dương [Lạng Sơn] Sắt 136 triệu tấn 16,9 Tùng Bá [Hà Giang] Mangan 1,4 triệu tấn - Tốc Tát [Cao Bằng] Titan 390,9 nghìn tấn 64 Nằm trong quặng sắt Núi Chúa [Thái Nguyên] Thiếc 10 triệu tấn - Tĩnh Túc [Cao Bằng], Sơn Dương [Tuyên Quang] Các loại khoáng sản có quy mô nhỏ gồm: amiăng [Khuổi Hàn - Cao Bằng], mica [La Phù - Phú Thọ], Làng Mục [Yên Bái], penpat [Thạch Khoán - Phú Thọ], florit [Bình Đường - Cao Bằng], quaczit [Thanh Sơn - Phú Thọ], vônfram [lẫn trong quặng thiếc], pirit, vàng, đá quý, đất hiếm, đá xây dựng… Đây là những loại khoáng sản có tiềm năng là thế mạnh để phát triển công nghiệp của vùng và của cả nước. * Thuỷ năng: Là vùng có trữ năng thuỷ diện lớn nhất đất nước. Đáng chú ý nhất là Sông Đà bắt nguồn từ Nguỵ Sơn [Vân Nam - Trung Quốc] chảy trên đất Việt Nam dài 543km, với địa thế lưu vực rất cao lòng sông chính và các chi lưu rất dốc, có nhiều ghềnh thác, đã tạo nên nguồn thuỷ năng 33 tỷ Kwh, chiếm hơn 30% tổng tiềm năng thuỷ điện cả nước. Trên dòng sông này đã xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, có công suất thiết kế 1,92 triệu Kw. Ngoài thuỷ điện Hoà Bình có ít nhất 4-5 điểm có thể xây dựng thuỷ điện với công suất tượng tự. Khả năng xây dựng thuỷ điện vừa và nhỏ khá phong phú. * Nguồn nguyên liệu từ nông - lâm nghiệp: Trung du và miền núi Bắc Bộ có nguồn nguyên liệu từ nông - lâm nghiệp rất phong phú đặc biệt là các sản phẩm từ cây công nghiệp, cây dược liệu, cây thực phẩm có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới, lâm sản, sản phẩm từ chăn nuôi đại gia súc… là nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển các ngành công nghiệp chế biến
  2. Hạn chế Trung du và miền núi Bắc Bộ có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng thuận lợi để phát triển công nghiệp song chưa được sử dụng triệt để do: - Dân cư thưa thớt chủ yếu là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp, lao động có tay nghề, cán bộ khoa học - kỹ thuật còn thiếu. - Thiếu vốn. - Thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng: Mạng lưới giao thông vận tải thưa thớt, nhiều tuyến đường xuống cấp nghiêm trọng, hệ thống nhà máy xí nghiệp còn ít, không đồng bộ, phương tiện sản xuất, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, hệ thống thông tin liên lạc còn nhiều khó khăn. Những hạn chế trên đã kìm hãm sự phát triển công nghiệp của vùng 7.1.2. Hiện trạng phát triển Mặc dù Trung du và miền núi Bắc Bộ có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp nhưng do có nhiều hạn chế nên ngành công nghiệp của vùng còn kém phát triển, tỉ trọng công nghiệp tương đối thấp so với cả nước.

Bảng 3. Tỉ trọng của các vùng trong cơ cấu lãnh thổ công nghiệp cả nước Vùng 1977 1992 1997 2000 Cả nước 100 100 100 100 Trung du và miền núi Bắc Bộ 15,0 4,1 6,5 5,8 Đồng bằng sông Hồng 36,3 12,6 19,4 21,2 Bắc Trung Bộ 6,7 6,5 3,5 3,9 Duyên hải Nam Trung Bộ 6,0 10,9 5,7 5,7 Tây Nguyên 1,1 1,7 1,2 1,0 Đông Nam Bộ 29,6 35,8 52,5 52,3 Đồng bằng sông Cửu Long 5,3 28,4 11,2 10,1 Trung du và miền núi Bắc Bộ [trừ tỉnh Quảng Ninh] là vùng có ngành công nghiệp phát triển chậm, giá trị sản xuất công nghiệp thấp, tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ cấu kinh tế không đáng kể, cơ cấu ngành công nghiệp không cân đối tập trung chủ yếu vào công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến chiếm tỷ lệ trọng rất nhỏ, lao động hoạt động trong ngành công nghiệp ít, trình độ công nghiệp còn lạc hậu, hầu hết các cơ sở công nghiệp do doanh nghiệp trung ương quản lý và đầu tư hầu như không có đầu tư nước ngoài. Trong số 14 tỉnh được coi là “ Vùng trắng công nghiệp” của cả nước thì trung du và miền núi Bắc Bộ gồm 9 tỉnh: Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai. Đặc biệt trong số các tỉnh này có một số tỉnh có giá trị công nghiệp đạt dưới 500 tỷ đồng là Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn. Theo kế hoạch năm 2006 Sơn La mới có giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 300 tỷ đồng, Điên Biên đạt 320 tỷ đồng, Lai Châu đạt 118 tỷ đồng, Hà Giang đạt 321 tỷ đồng, Cao Bằng đạt 370 tỷ đồng, Bắc Cạn 238 tỷ đồng. Đây cũng là những tỉnh nghèo nhất nước, thu nhập bình quân theo người thấp, ngân sách chủ yếu do trung ương cấp, xa các trung tâm kinh tế lớn, chất lượng nguồn lao động dân trí thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước. Tỉ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của các tỉnh này thấp, kém xa mức bình quân của cả nước, nếu tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trung bình cả nước đạt 41% thì ở cá tỉnh này chỉ chuiếm khoảng 15%- 16%, lao động bình quân trong ngành công nghiệp của cả nước chiếm 18% thì ở các tỉnh này khoảng 25%. Trong cơ cấu ngành công nghiệp cũng bất hợp lí, trong khi công nghiệp khai thác của cả nước chiếm 10% thì ở các tỉnh này có nơi lên đến 40% công nghiệp chế biến của cả nước hiện chiếm khoảng 84% thì tại các tỉnh này 40% là nhiều. Công nghiệp chế biến chủ yếu đáp ứng nhu cầu ngay tại địa phương, thị trường nhỏ bé, sản lượng thấp và chất lượng không cao. Trên thực tế, các tỉnh này đều có tiềm năng về tài nguyên khoáng sản, lâm nghiệp… Nhưng thời gian qua do quá khó khăn nên không thể phát triển. Mức độ tập trung công nghiệp của vùng không cao, các khu công nghiệp, các trung tâm công nghiệp còn ít, thưa thớt, nay mới đang trong giai đoạn hình thành. Các điểm công nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm công nghiệp phân bố không đều. 9 tỉnh thuộc “Vùng trắng công nghiệp” kể trên gần như không có trung tâm công nghiệp lớn, chủ yếu là các điểm công nghiệp, khu công nghiệp vừa và nhỏ. Các trung tâm công nghiệp, khu công nghiệp quan trọng có ý nghĩa tạo vùng là: Việt Trì, Lâm Thao [Phú Thọ], Thái Nguyên, Bắc Giang, Hoà Bình có hướng chuyên môn hoá là: thuỷ điện, chế biến nông, lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, hoá chất, phân bón, luyện kim sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp và Hình 9. Nhà máy thủy điện Hòa Bình công nghiệp chế biến trong đó: - Việt Trì: hoá chất, phân bón; - Thái Nguyên: luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng; - Bắc Giang: hoá chất, giấy, chế biến; - Lào Cai: khai khoáng, nhiên liệu, năng lượng; - Hoà Bình: thuỷ điện. 7.2. Các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh,Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh 7.2.1. Các nguồn lực phát triển - Vị trí địa lí: Là vùng nằm trên các tuyến giao thông huyết mạch của cả nước, có đầu mối giao thông vận tải quan trọng là Hà Nội, có các cảng biển lớn trong đó nổi bật là cụm cảng Hải Phòng - Cái Lân tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi hàng hoá với các vùng khác trong cả nước và với bạn hàng quốc tế bằng đường bộ và đường biển. - Điều kiện tự nhiên: Đây là vùng có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để phục vụ cho phát triển công nghiệp: Khoáng sản: chủ yếu có đá vôi, sét, cao lanh, than, khí thiên nhiên. Các khoáng sản này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các ngành công nghiệp như sản xuất vật liệu xây dựng, năng lượng của vùng. Đặc biệt nổi bật là có vùng than Quảng Ninh là vùng than lớn bậc nhất và chất lượng tốt nhất Đông Nam á. Nguồn than này được khai thác dùng làm nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện và để xuất khẩu. Có ngành nông nghiệp phát triển từ lâu đời và có vùng trọng điểm sản xuất lương thực thực phẩm đứng thứ 2 cả nước tạo nguồn nguyên liệu dồi dào và vững chắc cho các ngành công nghiệp như: công nghiệp chế biến, công nghiệp dệt, giấy, đồ dùng bằng da… Sản phẩm của ngành công nghiệp cũng là cơ sở để đa dạng hoá và chuyên môn hoá các ngành công nghiệp. - Điều kiện kinh tế - xã hội: Đây là khu vực được có lịch sử khai thác lãnh thổ từ lâu đời của nước ta, là nơi có mạng lưới điểm dân cư dày đặc, trong đó có các thành phố lớn và thị xã, thị trấn đồng thời đây cũng là vùng có mạng lưới giao thông vận tải, thủy lợi… khá phát triển từ đó tạo thuận lợi cho công nghiệp phát triển. Điểm nhấn quan trọng trong sự phát triển công nghiệp của vùng là vai trò của nguồn nhân lực. Đây là vùng có nguồn lao động dồi dào và chất lượng cao bậc nhất cả nước. Đồng thời với mật độ dân số đông khoảng hơn 1000người/km2, là vùng có mật độ dân số đông nhất cả nước nên tạo ra thị trường tiêu thụ tại chỗ rộng lớn, với nhu cầu ngày càng đa dạng có thể tạo ra động lực phát triển công nghiệp của vùng. Vùng có nhiều tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của nước ta nên thu hút được nhiều chính sách đầu tư, nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước nên đó cũng là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp của vùng. 7.2.2. Hiện trạng phát triển công nghiệp Đây là vùng có ngành công nghiệp phát triển rất sớm và nhiều ngành có ý nghĩa toàn quốc nhờ các lợi thế về gần nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, khoáng sản, nguồn lao động, thị trường tiêu thụ. Khu vực đồng bằng sông Hồng là nơi có công nghiệp phát triển vào loại sớm nhất nước ta, trong đó các cụm công nghiệp làng nghề được phát triển rất mạnh, trong vùng tập trung nhiều xí nghiệp công nghiệp hàng đầu cả nước, nhất là về cơ khí chế tạo, sản xuất hàng kim khí tiêu dùng, chế biến thực phẩm. Cho đến nay khu vực này đã hình thành một số khu, cụm, trung tâm công nghiệp có ý nghĩa cả nước, trong đó trung tâm công nghiệp Hà Nội và Hải Phòng là 2 trung tâm lớn và mang ý nghĩa quan trọng của nước ta. Các ngành công nghiệp quan trọng của vùng là: khai thác than, sản Hình 11. Khai thác than ở Quảng Ninh xuất vật liệu xây dựng, chế biến lương thực, thực phẩm, hoá chất, cơ khí, điện tử…Vùng có số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển nhanh chóng, với khoảng trên 20 khu công nghiệp tập trung [đến năm 2003 riêng khu vực đồng bằng sông Hồng có 16 khu] trong đó đặc biệt có mộtkhu công nghệ cao Hoà Lạc. Ngoài ra còn có một loạt các cụm công nghiệp ở các tỉnh thành khác như: khu công nghiệp Lễ Môn, Nghi Sơn [Thanh Hoá], khu công nghiệp Nam Cầm [Nghệ An]… Hạt nhân tạo sức hút kinh tế của vùng là các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh với 3 cực phát triển là Hà Nội – Hải Phòng – Hạ Long. Ngoài ra trung tâm tạo vùng còn có Nam Định – Thanh Hoá - Nghệ An. Đây là vùng có thế mạnh cả về công nghiệp truyền thống và công nghiệp hiện đại, các ngành công nghiệp xây dựng và công nghiệp năng lượng được đẩy mạnh phát triển đặc biệt là các lĩnh vực công nghiệp hướng ra xuất khẩu. Sức bật kinh tế của vùng sẽ được đẩy mạnh với việc phát triển các ngành công nghiệp hàng tiêu dùng, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, ưu tiên đẩy mạnh các lĩnh vực công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao. 7.2.3. Định hướng phát triển của vùng Tập trung phát triển các ngành cơ khí, nhiệt điện, phát triển các ngành điện tử, công nghệ thông tin, hoá chất, luyện kim, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng; tiếp tục phát triển nhanh công nghiệp dệt may, da giày phục vụ xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. 7.3. Các tỉnh từ Quảng Bình đến Ninh Thuận [gồm các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận] 7.3.1. Các nguồn lực phát triển

  1. Vị trí địa lí Là vùng có đặc điểm lãnh thổ trải dài theo chiều Bắc - Nam và hẹp ngang theo chiều Đông – Tây, là vùng nằm trên đường quốc lộ 1 và đường sắt thống nhất Bắc – Nam, là vùng duy nhất trong 6 vùng công nghiệp của cả nước mà cả 10 tỉnh đều tiếp giáp với biển. Đặc điểm vị trí địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho vùng trong việc khai thác các tiềm năng của biển để phục vụ cho phát triển công nghiệp đồng thời giúp vùng dễ dàng giao lưu, trao đổi hàng hoá với các vùng khác trong cả nước và với các nước khác bằng đường bộ và đường biển.
  1. Điều kiện tự nhiên: - Khoáng sản: Là vùng có tiềm năng khoáng sản quan trọng tạo điều kiện thuận lợi để vùng phát triển một cơ cấu ngành công nghiệp hợp lí. Các khoáng sản chủ yếu của vùng là: cát thuỷ tinh, ti tan, graphít, thạch anh, than, vàng. Trong đó cát thuỷ tinh [tập trung ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Cam Ranh - Khánh Hoà] có chất lượng và có ý nghĩa kinh tế, được sử dụng để sản xuất và tinh luyện các loại thuỷ tinh đặc biệt sử dụng cho công nghiệp và xây dựng. Bên cạnh đó vùng còn có tiềm năng lớn để sản xuất muối phục vụ cho ngành công nghiệp.
  2. Điều kiện kinh tế - xã hội Là vùng có số lượng dân cư khá đông với mật độ trung bình khoảng 190-200 người/km2, nguồn lao động có truyền thống hiếu học, cần cù, có trình độ ngày càng được nâng cao. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp của vùng cả ở hiện tại và tương lai. Bên cạnh đó vùng đang thu hút nhiều dự án đầu tư của nước ngoài, đây là tiền đề quan trọng tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho công nghiệp của vùng ngày càng phát triển hơn. 7.3.2. Hiện trạng phát triển công nghiệp Cơ cấu công nghiệp của vùng được hình thành tập trung theo thế mạnh của vùng, các sản phẩm công nghiệp được tiêu thụ khá mạnh ở trong vùng và khu vực Tây Nguyên. Các ngành công nghiệp trọng điểm của vùng là: công nghiệp khai thác khoáng sản, công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế tạo, hoá chất, công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Các trung tâm công nghiệp lớn nhất của vùng là: Huế, Đà Nẵng, Nha Trang. Vùng có khoảng hơn 15 khu công nghiệp, khu kinh tế mở, các hải cảng phục vụ sản xuất công nghiệp cũng là cơ sở để hình thành một cơ cấu ngành công nghiệp hợp lí và đa dạng hơn Thế mạnh về kinh tế công nghiệp của vùng trong thời gian tới sẽ được phát triển nhờ những chính sách quan tâm của nhà nước, những sự đổi mới trong sản xuất với các định hướng tích cực, trong đó chú trọng đến sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thủ công, mỹ nghệ. Trung tâm tạo vùng là vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ: Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Với sự hình thành các khu công nghiệp quan trọng như Chân Mây, Liên Chiểu, Dung Quất, khu kinh tế mở Chu Lai, Kì Hà, Điện Nam - Điện Ngọc, khu công nghiệp Nam Tuy Hoà. Hình 12. Nhà máy lọc dầu Dung Quất [Quảng Ngãi] 7.3.3. Định hướng phát triển Tập trung phát triển cộng nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, lọc dầu, hoá dầu, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu xây dựng và dệt may, da giày, điện tử và công nghệ thông tin. 7.4. Các tỉnh thuộc Tây Nguyên [trừ Lâm Đồng] 7.4.1. Nguồn lực phát triển
  3. Nguồn lực tự nhiên Đây là lưu vực của sông Xê Xan, Xrêpôk, là thượng nguồn của sông Đồng Nai nên vùng có tiềm năng lớn về thuỷ điện. Là vùng có tài nguyên rừng giàu nhất nước ta, rừng có độ che phủ lớn nhất cả nước, trong rừng có nhiều gỗ quý, lâm sản chim, thú quý có giá trị … là cơ sở quan trọng để phát triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến lâm sản. Vùng có tài nguyên khoáng sản chủ yếu như: bô xít, than bùn, than nâu, đá quý. Bô xít là khoáng sản có trữ lượng lớn và quan trọng của vùng [quặng nguyên 3,05 tỉ tấn, quặng tinh 1,5 tỉ tấn] phân bố chủ yếu ở Đắc Nông, Gia Lai, Kon Tum. Vùng có 21 điểm có vàng [trữ lượng 8,82 tấn vàng gốc] phân bố chủ yếu ở Gia Lai, Kon Tum, ngoài ra có đá quý, vật liệu xây dựng, than bùn than nâu [trữ lượng từ 3 - 4 tỉ tấn]. Địa hình, khí hậu của vùng có sự phân hoá đa dạng kết hợp với đất bazan màu mỡ tạo thế mạnh về cây công nghiệp lâu năm của vùng, đây cũng là nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú thuận lợi phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến của vùng.
  4. Nguồn lực kinh tế – xã hội Vùng có mật độ dân cư không đông, khoảng 105 người/km2, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số [khoảng 37 dân tộc] tạo ra nhiều bản sắc văn hoá và phong tục, tập quán sản xuất đa dạng cho vùng. Đây là vùng có mật độ dân cư thưa nhất nước ta, trình độ dân cư nhìn chung còn thấp, cơ sở vật chất, cơ sơ hạ tầng còn thiếu đồng bộ nên đây chính là những trở ngại trong việc phát triển công nghiệp của vùng. 7.4.2. Hiện trạng phát triển Tỉ trọng ngành công nghiệp của vùng chiếm chưa tới 1% trong cơ cấu công nghiệp của cả nước, công nghiệp vẫn tập trung vào những ngành khai thác thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên còn những ngành công nghiệp chế biến thì rất nhỏ bé. Một số ngành tăng trưởng khá là công nghiệp năng lượng, chế biến nông, lâm sản. Hướng phát triển công nghiệp của vùng xuất phát từ chính vị trí mang tính chiến lược của vùng, đặc biệt là khai thác các thế mạnh về cây công nghiệp, lâm sản, thuỷ điện của vùng. Các công trình thuỷ điện lớn đã và đang xây dựng vẫn sẽ là tiêu điểm trong phát triển công nghiệp của vùng. Mặc dù có Hình 13. Nhà máy thủy điện Yaly nguồn nguyên liệu tương đối lớn nhưng công nghiệp chế biến của vùng còn rất hạn chế. Hạt nhân phát triển công nghiệp của vùng là: Plâyku, Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa, Kon Tum [chỉ mang tính chất hành chính bởi chưa có một hạt nhân kinh tế đủ mạnh tạo sức hút hình thành vùng công nghiệp. 7.4.3. Định hướng phát triển Trong tương lai vùng cần được đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng, đầu tư về y tế, giáo dục. Tập trung phát triển thuỷ điện, công nghiệp chế biến nông, lâm sản và khai thác, chế biến khoáng sản. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến tại chỗ, từng bước phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp. Bên cạnh đó cần chú trọng khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. 7.5. Vùng Đông Nam Bộ và Lâm Đồng, Bình Thuận 7.5.1. Các nguồn lực phát triển
  5. Lãnh thổ và vị trí địa lí Vùng Công nghiệp thứ 5 bao gồm 8 tỉnh, thành phố: Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận và Lâm Đồng. Hầu hết các tỉnh thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Đông Nam Bộ có vị trí địa lí hết sức thuận lợi cho phát triển Kinh tế - Xã hội nói chung và Công nghiệp nói riêng: - Phía Tây và Tây Nam giáp Đồng bằng sông Cửu Long là vùng giàu có về tài nguyên nông nghiệp, hiện nay là nơi sản xuất lương thực - thực phẩm lớn nhất của cả nước. - Phía Đông và Đông Nam giáp biển, giàu hải sản, dầu mỏ và khí đốt, nhiều địa điểm lí tưởng xây dựng các cảng biển nước sâu cho phép tàu trọng tải lớn cập bến. Đông Nam Bộ lại nằm gần đường hàng hải quốc tế thuộc loại nhộn nhịp nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều này có ý nghĩa quan trọng không chỉ với vùng mà có ý nghĩa đối với kinh tế cả nước. - Phía Bắc và Đông Bắc liền kề với Tây Nguyên có tiềm năng lớn về cây công nghiệp, về rừng, khoáng sản và dự trữ thuỷ năng lớn. Với vị trí này, Đông Nam Bộ là đầu mối giao thông của các tỉnh phía Nam với cả nước và quốc tế bằng hệ thống đường thuỷ, đường bộ, đường sông, đường biển và đường hàng không. Đông Nam Bộ có thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm lớn về thương mại, dịch vụ, khoa học- kĩ thuật, đầu mối giao thông và giao lưu quuốc tế, có lực lượng lao động dồi dào, tay nghề khá, nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ, đang đóng góp tích cực cho sự phát triển của cả khu vực phía Nam.
  6. Nguồn lực tự nhiên - Tài nguyên khoáng sản: Đông Nam Bộ có 243 mỏ với quy mô từ nhỏ đến lớn. Các mỏ lớn chủ yếu là phi kim, mỏ nhiên liệu và kim loại thường nhỏ. Có ý nghĩa nhất là dầu mỏ và khí đốt với trữ lượng dự báo là 4 -5 tỉ tấn dầu & 485 – 500 tỉ m3 khí, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của Công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí. Ngoài ra còn có các khoáng sản có giá trị khác như: đá ốp lát [67% tổng giá trị các loại khoáng sản]; sét gạch ngói ở Tánh Linh [Bình Thuận], Phú Túc [Đồng Nai], Bình Phước, Tây Ninh có chất lượng cao; cát thuỷ tinh [3%] có giá trị xuất khẩu ở Bình Châu [Bà Rịa - Vũng Tàu]; cao lanh khoảng 130 triệu tấn, chất lượng tốt, phục vụ Công nghiệp gốm sứ, tập trung nhiều ở Bình Dương, Bình Phước; titan tập trung nhiều ven biển, khai thác dễ dàng, tiện cho xuất khẩu v.v… - Tài nguyên nước: Vùng có hệ thống sông Đồng Nai là hệ thống sông lớn thứ 3 ở nước ta. Lưu vực sông bao trùm gần hết các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Tp. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng và một phần Đắc Lắc, Bình Thuận, Ninh Th uận, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu. Hàng năm lượng nước đổ ra biển khoảng 40,6 tỉ m3 [phát sinh tại chỗ là 90%]. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.500mm [khoảng 183 tỉ m3]. Trong vùng có hai hồ chứa lớn là Trị An và Dầu Tiếng, dung tích 3,6 tỉ m3. Nc goài ra còn có môtj số hồ nhỏ ở pphía Đông, dung tích tổng cộng 300 triệu m3. Như vậy tổng lượng nước mặt dự trữ lên đến gần 4 tỉ m3, đủ khả năng cung cấp nước cho vùng để phát triển Công nghiệp. Nguồn nước ngầm trữ lượng khá lớn nhưng nằm sâu 50 – 200m, phân bố ở Biên Hoà, Long An và Tp. Hồ Chí Minh. Tiềm năng thuỷ điện tổng công suất đạt 2.713MW, khả năng cung cấp điện hàng năm gần 10 tỉ KWh. - Tài nguyên sinh vật: Rừng tự nhiên diện tích không lớn, phân bố không đồng đều giữa các tỉnh: chủ yếu ở Bình Thuận [>434 nghìn ha], Bình Dương, Bình Phước [272 nghìn ha], Ninh Thuận [154 nghìn ha]. Các tỉnh khác chỉ dưới 100 nghìn ha. Thấp nhất là Tp. Hồ Chí Minh 6700 ha. Rừng trồng nhiều ở Bình Dương, Bình Phước [15,2nghìn ha], Bình Thuận [14 nghìn ha], Bà Rịa – Vũng Tàu [14,3 nghìn ha]. Các tỉnh khác rất ít Riêng Lâm Đồng có diện tích và sản lượng cây Công nghiệp như cà phê, chè, điều và đặc biệt là rừng tương đối lớn. Rừng ở Đông Nam Bộ chủ yếu cung cấp gỗ dân dụng và củi đốt cho Tp. Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long, nguyên liệu cho Liên hiệp giấy Đồng Nai. Ngoài ra, rừng còn có tác dụng giữ tầng nước ngầm, không bị mất nước ở hồ chứa, bảo vệ các vùng chuyên canh cây Công nghiệp. Nguồn thuỷ, hải sản khá lớn, bao gồm cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Bờ biển khá dài, từ vịnh Cam Ranh đến cửa Soi Rạp. Vùng biển Ninh Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu là một trong bốn ngư trường trọng điểm của cả nước, trữ lượng cá khoảng 690 – 704 nghìn tấn [40% trữ lượng vùng biển phía Nam]. Các vũng, vịnh và đảo ven bờ là nơi tránh gió và cơ sở hậu phương cho khai thác và chế biến thuỷ, hải sản. Đông Nam Bộ có thế mạnh về cây Công nghiệp, đặc biệt là cây Công nghiệp dài ngày như cao su, cà phê, hồ tiêu, chè, điều, dâu tằm. Tập đoàn cây Công nghiệp ngắn ngày có lạc, đỗ tương, cói, mía, thuốc lá … Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm. + Vùng có địa hình đồng bằng và bình nguyên rộng với những vùng đồi gò lượn sóng, độ dốc không quá 15o thuận lợi cho tập trung hoá sản xuất, phát triển Công nghiệp, đô thị, xây dựng hệ thống giao thông, điện, nước …
  7. Nguồn lực kinh tế - xã hội - Dân cư và lao động: Năm 2007 dân số của Đông Nam Bộ là 11,4 triệu người, tỉ lệ gia tăng tự nhiên là 2,1%, gia tăng cơ học cao do sức hút của các đô thị và của tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Nếu tính đến cả phần dân nhập cư không có hộ khẩu, gia tăng cơ giới ở vùng có thể lên đến 2 – 2,4%. Hiện nay dòng nhập cư này vẫn còn đang diễn biến phức tạp với xu hướng ngày càng tăng lên, nhất là ở Tp. Hồ Chí Minh. Đông Nam Bộ có cơ cấu dân số trẻ: tỉ lệ dân dưới và trong tuổi lao động cao, tỉ lệ người già thấp. Do đó vùng có nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn. Lao động có kĩ thuật, nhạy bén, năng động và quen với nền kinh tế hàng hoá. Do lịch sử phát triển vùng nên lực lượng lao động có tác phong Công nghiệp cao hơn các vùng khác. Điều này cũng thu hút đầu tư nước ngoài vào mạnh hơn . Mật độ dân số trung bình 327 người/km2 song chênh lệch giữa các tỉnh, thành phố. Dân số tập trung ở các thành phố lớn, các tỉnh đồng bằng ven biển, các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm, như: Tp. Hồ Chí Minh 2.334 người/km2, Bà Rịa – Vũng Tàu 359 người/km2, Đồng Nai 320 người/ km2, Bình Dương 234 người/km2, Tây Ninh 228 người/km2, Ninh Thuận 139 người/km2, Bình Thuận 116 người/km2, Bình Phước 78 người/km2. - Cơ sở vật chất - kĩ thuật ở Đông Nam Bộ tương đối tốt, thuận lợi cho việc phân công lại lao động theo lãnh thổ. Hệ thống giao thông khá thuận lợi so với các vùng khác, dễ dàng giao lưu nội vùng cũng như liên vùng và quốc tế. Các tuyến đường bộ, sắt, đường sông, đường biển, đường hàng không cùng hệ thống nhà ga, bến cảng, sân bay … hội tụ ở Tp. Hồ Chí Minh. Tổng chiều dài đường bộ là 11.286 km, trong đó có 1.606 km quốc lộ. Các tuyến đường quan trọng của vùng là đường 51 [Biên Hoà – Vũng Tàu], đường 13[Tp. Hồ Chí Minh – Crachê – Viêng Chăn – Luông Pha Băng]. Đông Nam Bộ có 28 trên tổng số 73 cảng biển của cả nước, có các cảng lớn như cảng Sài Gòn công suất lớn nhất nước ta hiện nay [10 triệu tấn]; cụm cảng nước sâu Thị Vải – Vũng Tàu gồm cảng dịch vụ dầu khí và cảng hàng hoá,năng lực thiết kế 1 triệu tấn/năm; cảng Sao Mai - Bến Đình… Có đội tàu viễn dương 33 chiếc, tổng trọng tải 177.600 DWT. Đường hàng không phát triển cả tuyến nội địa và quốc tế với sân bay lớn nhất là Tân Sơn Nhất được xây dựng từ thời Mỹ - ngụy, nay được cải tạo và mở rộng với hơn 20 tuyến bay đi các nơi trong nước và quốc tế. - Thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, bao gồm thị trường nội vùng, vùng lân cận [Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ], và đang mở rộng thị trường ra nước ngoài với các mặt hàng “tinh” hơn. - Đường lối chính sách: Chính sách mở cửa và Luật đầu tư có tác động sớm và nhanh ở Đông Nam Bộ. Vùng có tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đến cuối năm 1997 là 1.210 dự án [55,66% số dự án của cả nước] với tổng số vốn 15.744 tỉ USD [52,65% cả nước] [chưa kể các dự án khai thác dầu khí]. Vùng lại có tam giác tăng trưởng kinh tế Tp. Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Vũng Tàu thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nên sức hút càng lớn hơn.
  8. Hạn chế - Tài nguyên khoáng sản thực sự chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển Công nghiệp của vùng, đặc biệt là khoáng sản kim loại. - Nguồn nước tuy dồi dào song lại phân theo mùa, về mùa khô vẫn đe doạ thiếu nước cho sản xuất. - Kết cấu hạ tầng tuy phát triển song chưa đáp ứng được yêu cầu đang tănng nhanh và năng động của vùng. - Lực lượng lao đông chưa đáp ứng được cả về lượng và chất. - Các luồng di dân tự do vào các đô thị lớn dẫn đến quá tải, sức chứa ở Tp. Hồ Chí Minh đã lên đến mức báo động, gây nhiều vấn đề về nhà ở, điện nước, giao thông, y tế, giáo dục và môi trường … Trong khi đó, các khu đô thị mới xây dựng lại chưa đủ sức hút về việc làm và các điều kiện kết cấu hạ tầng kĩ thuật và xã hội nên không kéo được các luồng chuyển cư. Cần hình thành các điểm dân cư đô thị gần các khu Công nghiệp trên cơ sở nghiên cứu quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. 7.5.2. Hiện trạng phát triển Công nghiệp là thế mạnh của vùng. Đông Nam Bộ là vùng công nghiệp phát triển mạnh nhất nước ta. Sản xuất công nghiệp thường chiếm gần 60% sản lượng Công nghiệp cả nước. Cơ cấu ngành Công nghiệp ở Đông Nam Bộ đã có những thay đổi nhanh chóng. Trước năm 1975, chủ yếu là Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và Công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Sau năm 1975, các ngành Công nghiệp nặng được chú trọng phát triển như: sản xuất công cụ & thiết bị, hoá chất, chế biến lâm sản xuất khẩu; các ngành Công nghiệp nhẹ được thay đổi về công nghệ nên năng suất của vùng được nâng cao. Các ngành chiếm tỉ trọng cao là: nhiên liệu [dầu mỏ] 28,5%; thực phẩm 27,5%; dệt may 10,9%; hoá chất, phân bón, cao su 10,2%. Bốn ngành này chiếm trên 77,1% giá trị sản lượng Công nghiệp của vùng. Một số sản phẩm xuất khẩu: dầu mỏ, thực phẩm, dệt may, cao su; một số sản phẩm đã thay thế được hàng nhập khẩu: hàng tiêu dùng, hoá chất, phân bón. Công nghiệp năng lượng dựa vào lợi thế tài nguyên [tiềm năng thuỷ điện, dầu khí] và thị trường tiêu thụ điện cực lớn. Đông Nam Bộ có nhà máy thuỷ điện Trị An trên sông Đồng Nai, công suất 400 nghìn KW [chỉ sau thuỷ điện Hoà Bình], thuỷ điện Thác Mơ 150 nghìn KW trên sông La Ngà. Đây là nguồn năng lượng quan trọng phục vụ hoạt động kinh tế và đời sống nhân dân. Tuy vậy đây lại là vùng mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu. Hiện nay vùng vẫn dựa vào nguồn điện từ miền Bắc đưa vào. Việc khai thác và chuyển khí đồng hành từ các mỏ ngoài thềm lục địa để chạy các nhà máy điện tuốcbin khí sẽ góp phần giảm sự mất cân đối này. Hình 14. Nhà máy nhiệt điện Phú Mĩ Chế biến thực phẩm là ngành đứng thứ hai sau Công nghiệp dầu khí. Nó chiếm tỉ trọng cao do lợi thế về nguồn nguyên liệu và thị trường. Sản phẩm đa dạng, chất lượng cao không chỉ phục vụ nhu cầu trong vùng mà còn xuất khẩu sang vùng khác và nước ngoài. Một số sản phẩm chiếm tỉ trọng cao trong tổng sản lượng cả nước như: thuốc lá 74,5%, bia 48,9%, đường mía 24,4%, thuỷ sản 29,1% … Công nghiệp dệt, may, da thu hút nhiều lao động nhất. Sản phẩm chất lượng tốt có khả năng cạnh tranh với thị trường ngoài nước. Ngành hoá chất phát triển nhất trong cả nước, chủ yếu là hóa tiêu dùng. Nhiều sản phẩm chiếm tỉ trọng lớn trong cả nước như: sơn, pin, thuốc chữa bệnh… Công nghiệp cơ khí - điện tử tuy tỉ trọng không cao nhưng thu hút tới 10% lao động Công nghiệp toàn vùng. Một số sản phẩm chất lượng có khả năng cạnh tranh trên khắp cả nước và chiếm tỉ trọng lớn: tivi lắp ráp, động cơc điêzen, máy công cụ. Tp. Hồ Chí Minh là trung tâm phát triển các ngành Công nghiệp đòi hỏi hàm lượng tri thức cao do nơi đây hội tụ đủ cả đầu vào và đầu ra cho ngành này. Công nghiệp không chỉ tăng cao về giá trị sản lượng, chuyển dịch về cơ cấu sản phẩm và đổi mới công nghệ mà còn có sự chuyển dịch theo lãnh thổ: những năm gần đây, Công nghiệp phát triển theo xu hướng dịch từ trung tâm Tp. Hồ Chí Minh ra phía đông [Biên Hoà, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu] là nơi có lợi thế về ngành dầu khí. Đã và đang hình thành nhữnh hành lang Công nghiệp quy mô lớn nối liền Tp. Hồ Chí Minh – Biên Hoà, dọc quốc lộ 51 [Biên Hoà – Vũng Tàu], dọc quốc lộ 1A [Tp. Hồ Chí Minh – Tân An], dọc quốc lộ 13 [Tp. Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một]. Nhiều khu Công nghiệp đã thành lập trên khắp vùng, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Tp. Hồ Chí Minh. Đến tháng 11-2003 đã có 43 khu Công nghiệp có quyết định thành lập. Cụ thể các khu Công nghiệp [KCN] và khu chế xuất [KCX] được phân bố như sau: - Tp. Hồ Chí Minh: KCX Tân Thuận, KCN Linh Trung [1, 2], KCN Bình Chiểu, KCN Hiệp Phước, KCN Tân Thới Hiệp, KCN Cát Lái, KCN Lê Minh Xuân, KCN Tân Tạo, KCN Tân Bình, KCN Vĩnh Lộc, KCN Tam Bình, KCN Tây Bắc Củ Chi, KCN Phong Phú, khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh. - Đồng Nai: KCN Amata, KCN Biên Hoà 2, KCN Gò Dầu, KCN Long Bình – Loteco, KCN Nhơn Trạch [1, 2, 3], KCN Hố Nai, KCN Sông Mây, KCN Biên Hoà 1. - Bình Dương: KCN Sóng Thần [1, 2], KCN Việt Hương, KCN Đồng An, KCN Việt Nam – Singapo, KCN Tân Đông Hiệp, KCN Bình Đường, KCN Mĩ Phước. - Bà Rịa – Vũng Tàu: KCN Mĩ Xuân A, KCN Đông Xuyên, KCN Phú Mĩ 1, KCN Mĩ Xuân A2, KCN Mĩ Xuân B1, KCN Cái Mép. Lâm Đồng là tỉnh thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhất trong các tỉnh Tây Nguyên, chủ yếu là các ngành: chế biến cà phê xuất khẩu, dệt may, chế biến gỗ, rau quả, chăn nuôi … là những ngành có lợi thế về nguồn nguyên liệu. Tp. Hồ Chí Minh là trung tâm Công nghiệp lớn nhất của vùng và của cả nước. Cơ cấu ngành rất đa dạng, trong đó nổi lên các ngành Công nghiệp hàm lượng tri thức cao như Công nghiệp cơ khí chính xác, hoá chất, điện tử, tin học … Đông Nam Bộ là vùng tương đối điển hình của nước ta về khai thác và tổ chức sản xuất theo lãnh thổ. Ở đây có sự kết hợp giữa chuyên môn hoá sản xuất và phát triển tổng hợp, tạo nên một tổng hợp thể sản xuất lãnh thổ hợp lí cả về Công nghiệp và nông nghiệp, gắn việc khai thác kinh tế trên đất liền với dải ven biển và đảo, hình thành các ngành kinh tế biển đa dạng và phong phú. Tuy vậy phân bố Công nghiệp trên lãnh thổ vẫn có sự tương phản tương đối sâu sắc giữa các tỉnh: Riêng Tp. Hồ Chí Minh chiếm 50,4% giá trị sản lượng Công nghiệp toàn vùng Đông Nam Bộ, Bà Rịa – Vũng Tàu 36% [trong đó gần 90% thuộc về Công nghiệp khai thác dầu khí]. Trong khi đó ở Bình Thuận, Lâm Đồng, giá trị sản lượng Công nghiệp vẫn còn thấp. 7.5.3. Định hướng phát triển Trong công cuộc CNH – HĐH đất nước, với lợi thế và những thành tựu đã đạt được, Đông Nam Bộ xứng đáng là đầu tàu không chỉ của khu vực Nam Bộ mà còn của cả nước. Hướng phát triển lâu dài trong tương lai là khai thác lãnh thổ theo chiều sâu, nghĩa là nâng cao hiệu quả khai thác lãnh thổ trên cơ sở tăng cường đàu tư khoa học, kĩ thuật, vốn nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Về Công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao và trang thiết bị cần thiết cho các ngành kinh tế khác. Thúc đẩy các ngành phát triển nhanh và vững chắc như nhiên liệu, năng lượng, hàng tiêu dùng, cơ khí và điện tử; vừa phục vụ nhu cầu trong nước, vừa thay thế hàng nhập khẩu, hướng vào xuất khẩu. Các ngành chủ chốt: Công nghiệp dầu khí, Công nghiệp điện, cơ khí, luyện thép, điện tử tin học, hoá chất, dệt, may Công nghiệp, da giầy, giấy, nhựa, sành sứ, thuỷ tinh, chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, cần cải tạo, mở rộng các khu vực tập trung Công nghiệp hiện có, phát triển các khu Công nghiệp mới. 7.6. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 7.6.1. Nguồn lực phát triển
  9. Lãnh thổ và vị trí địa lí Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Tp. Cần Thơ, Sóc Trăng, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Kiên Giang. Vùng có diện tích tự nhiên là 39.717,3 km2 chiếm 12% diện tích cả nước; dân số khoảng 16,7 triệu người chiếm 21% cả nước [năm 2002]. Đây là vùng đất tận cùng phía Nam của Tổ quốc, bờ biển dài hơn 736 km với nhiều đảo và quần đảo. Ba mặt giáp biển Đông và vịnh Thái Lan. Phía Tây bắc giáp Campuchia. Phía Bắc giáp Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, khu vực phát triển năng động nhất của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long còn nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và đường hàng không quốc tế quan trọng, nối liền ba khu vực: Nam Á, Đông Á và châu Úc. Đây cũng là trung tâm của khu vực Đông Nam Á, là thị trường và là những đối tác quan trọng.  Thuận lợi phát triển các ngành kinh tế biển: khai thác hải sản, dịch vụ cảng biển, du lịch, vận tải … và giao lưu, học hỏi các khu vực kinh tế phát triển trong và ngoài nước.
  10. Nguồn lực tự nhiên - Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản của vùng không đáng kể. Chỉ có một số loại có trữ lượng khá là đá vôi, cát, đá và than bùn. + Đá vôi phân bố ở khu vực Hà Tiên, Kiên Lương. Dạng núi vách đứng, diện tích không lớn, thường khoảng vài chục km2 với trữ lượng 145 triệu tấn. Đá vôi dùng làm nguyên liệu cho các nhà máy xi măng [Kiên Lương, Sao Mai …] và sản xuất vôi xây dựng. + Đá anđesit, granit phân bố chủ yếu tại núi Sam [Châu Đốc], núi Tra Sự [Tịnh Biên], núi Cấm, Lương Phí, Bà Đội, Ba Thê, Núi Sập [An Giang]. Diện phân bố rộng vài trăm km2. Tổng trữ lượng các loại khoảng 450 triệu m3. + Than bùn ở tứ giác Long Xuyên [3500 ha], Cần Thơ, Sóc Trăng, U Minh [32 600 ha], Cà Mau [2 900 ha], Kiên Giang [3 000 ha]. Tổng trữ lượng khoảng 400 triệu tấn, lớn nhất ở U Minh 300 triệu tấn, còn lại ở Đồng Tháp Mười, Kiên Giang. Hiện nay đang khai thác phục vụ nông nghiệp, Công nghiệp hoá chất, phụ gia Công nghiệp. Lượng khai thác khoảng 500 000 tấn/năm. + Emelit có dọc ven biển từ Tp. Hồ Chí Minh đến Cà Mau và Bạc Liêu, tập trung chủ yếu ở cửa sông Hậu. Đây là khoáng sản ít nhiều có giá trị nhưng chưa xác định được trữ lượng. + Nước khoáng ở Trung Lương [Tiền Giang], ở Vĩnh Long, ở Sóc Trăng, ở Bạc Liêu. Ngoài ra có sét làm gạch ngói, cát sỏi, môlipđen ở núi Sam [An Giang], đá huyền Phú Quốc [Kiên Giang] làm trang sức, bentônit dưới bề mặt đồng bằng sâu 5 – 10m. - Tài nguyên nước: Sông Cửu Long có vai trò quan trọng trong mọi mặt đời sống và sản xuất của vùng. Tổng lượng nước là 500 tỉ m3, chia làm hai nhánh là Tiền Giang và Hậu Giang, đổ ra biển bằng 9 cửa. Chế độ thuỷ văn theo mùa mưa và khô: mùa mưa, nhất là vào tháng 9, 10 nước sông dâng làm ngập các vùng trũng [Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên]. Mùa khô lượng nước giảm hẳn, thuỷ triều lấn sâu lam những vùng đất ven biển bị nhiễm mặn nghiêm trọng. Lượng mưa lớn, nhưng chênh lệch theo mùa. Mùa mưa [từ tháng 5 đến tháng 10] chiếm tới 90% lượng mưa cả năm. - Tài nguyên sinh vật: Đồng bằng sông Cửu Long có nguồn sinh vật phong phú và đặc trưng. + Rừng ngập mặn ven biển Bạc Liêu, Cà Mau > 150 000 ha, có 46 loài, chủ yếu là đước; ở Kiên Giang có rừng tràm, nhiều nhất ở U Minh [khoảng 171.000 ha]. Rừng có giá trị lớn: 30 loài cây cho gỗ và than củi, 14 loài cho tananh … + Động vật có ý nghĩa kinh tế nhất là các loài động vật sống dưới nước, đặc biệt là tôm, cá. Vùng này có trữ lượng cá lớn nhất cả nước, phân bố tập trung ở cửa sông và vùng vịnh Thái Lan. Vịnh Thái Lan có cá đáy khoản 600.000 tấn [36% lượng cá đáy cả nước], cá nổi khoảng 275.000 tấn [20% cả nước], tôm 25.000 tấn [50% cả nước]. Năng suất nguyên sinh cũng cao nhất cả nước, cao gấp 10 lần các vùng ven biển khác. Nhiều giống quý như cá bạc má, cá lẹp, cá trích, cá thu, cá ngừ, tôm he, mực nang, mực ống … Ngoài ra có đồi mồi, trăn các loại. + Thuỷ sản nội địa chủ yếu là tôm, cá nước ngọt, nước lợ. Nhiều loài có giá trị cao như tôm càng xanh, cá chép, cá tra, cá bống … + Động vật cạn đáng quan tâm nhất là các loài chim tự nhiên trú ngụ từ lâu đời tạo thành những vườn chim độc đáo như: vườn Ngọc Hiển, Cái Nước, Vĩnh Lợi, [Bạc Liêu, Cà Mau], vườn Cù Lao Đất [Bến Tre], vườn chim U Minh, Giá Rai, Hồng Dân … Có khoảng 386 loài chim. Thực chất đây là hệ sinh thái cá - rừng – chim đặc trưng, tạo thành trạng thái cân bằng, ổn định. Về thú có khỉ, lợn rừng, động vật có vú ăn cá... ở các dải rừng ven biển. - Nguyên liệu từ sản xuất nông nghiệp: Đây là vùng trọng điểm sản xuất lương thực - thực phẩm lớn nhất của nước ta; đồng thời cũng là nơi sản xuất nhiều nông sản hàng hoá. Hầu hết các tỉnh, tỉ lệ nông lâm thuỷ sản đều đóng góp trên 50% GDP. Sản lượng các nông sản, thuỷ sản đều chiếm khoảng 50% của cả nước. Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào cho Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm. Nhiều năm qua, sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản tăng lên rõ rệt, thúc đẩy Công nghiệp chế biến phát triển. Năm 2002 sản lượng lương thực đạt 17.576,5 nghìn tấn, chiếm 48,3% sản lượng cả nước. Tập đoàn cây ăn quả rất phong phú, nhiều cây chiểm diện tích lớn: cam, chuối, dứa, chanh, xoài, ổi, táo, nhãn … Các dạng vườn chuyên và vườn hỗn hợp đạt hiệu quả sản xuất rất cao. Ngành chăn nuôi có nhiều điều kiện phát triển, đặc biệt là chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản. Năm 2002, đàn trâu có 36,6 nghìn con, đàn bò 278,2 nghìn con, đàn lợn 3,15 triệu con [13,6% cả nước], 34,9 triệu con gia cầm [chủ yếu là vịt] Sản lượng thuỷ sản là 1327,4 nghìn tấn [trong đó 848,6 nghìn tấn thuỷ sản khai thác, còn lại là nuôi trồng], chiếm 50% sản lượng thuỷ sản cả nước.
  11. Nguồn lực kinh tế - xã hội - Dân cư và lao động: Đồng bằng sông Cửu Long có lịch sử khai thác lãnh thổ khá muộn so với các vùng khác. Thế kỉ XVII, người Việt vào chinh phục và khai thác đồng bằng, chủ yếu là để sản xuất nông nghiệp [trồng lúa nước] và đánh bắt thuỷ hải sản. Năm 2002 dân số ở đây là 16,7 triệu người, mật độ dân số trung bình 421 người/km2. Gia tăng tự nhiên và gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học đều cao hơn so với đồng bằng sông Hồng. Đây là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế trong điều kiện vùng vẫn còn thiếu lao động. Nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, cần cù, chịu khó, thẳng thắn, thật thà, có lòng yêu nước sâu sắc. Phát huy truyền thốn sẵn có là một trong những động lực phát triển KT – XH vùng trong thời kì kinh tế thị trường. - Cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng: Giao thông vận tải nội vùng chủ yếu bằng đường thuỷ. Mật độ đường thuỷ là 0,68 km/km2. Hệ thống sông – kênh - rạch tạo thành mạng lưới liên kết các tỉnh với nhau. Có hệ thống các cảng nội địa trải khắp. Các cảng chính: Mỹ Tho, Cao Lãnh, Trà Nóc, Long Xuyên, Kiên Lương … Cảng có khả năng tiếp nhận tàu trọng tai trung bình, hàng năm thông qua 50.000 đến 500.000 tấn. Riêng cảng trên sông Tiền, sông Hậu có khả năng nhận tàu 1000 – 3000 tấn. Các tuyến quốc lộ quan trọng của vùng: 1, 30, 50, 53, 54, 60, 61, 80, 91, 91B, 12 với tổng chiều dài 850km. Ngoài ra có 2499km tỉnh lộ và huyện lộ, chủ yếu là đường đất hoạc cấp phối. Đường hàng không với sân bay Trà Nóc [Cần Thơ], Rạch Giá, Phú Quốc [Kiên Giang] đang được khai thác.
  12. Những khó khăn Tài nguyên thiên nhiên nhìn chung lợi thế cho nông nghiệp nhiều hơn là giành cho Công nghiệp. Địa chất và địa hình vung đồng bằng châu thổ này cũng gây khó khăn không nhỏ cho việc kiến thiết các công trình lớn [nhà máy, xí nghiệp …]. Khoáng sản hầu như không có, sông ngòi vùng đồng bằng quá bằng phẳng không cho phép phát triển thuỷ điện …. Dân cư có tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời, ít có kinh nghiệm sản xuất Công nghiệp và sản xuất hàng hoá. Trình độ dân trí thấp, rất thiếu lao động kĩ thuật. Giao thông nội vùng chủ yếu bằng đường thuỷ, các cảng công xuất còn thấp, hệ thống đường bộ chất lượng chưa cao. Hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc đang trong tình trạng yếu kém. 7.6.2. Hiện trạng phát triển Công nghiệp vùng chưa phát triển mạnh do thiếu tài nguyên phục vụ Công nghiệp. Thế mạnh về nông nghiệp khiến vùng có khả năng phát triển các ngành Công nghiệp sử dụng nguyên liệu nông sản. Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm khá phát triển, chiếm tỉ trọng Công nghiệp lớn của vùng [65%, năm 1997], chiếm hơn 60% giá trị gia tăng Công nghiệp hàng năm. Tuy vậy sự phát triển công nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế: - Mới đưa được 14 – 15% sản lượng Hình 15. Chế biến tôm đông lạnh xuất khẩu ở Đồng bằng sông Cửu Long nông, thuỷ sản vào chế biến. - Đại bộ phận là sơ chế sản phẩm, chất lượng và hiệu quả hạn chế. Ngành Công nghiệp quan trọng thứ hai là Công nghiệp vật liệu xây dựng, chiếm 12% giá trị gia tăng Công nghiệp. Ngành này phát triển dựa vào nguồn nguyên liệu trong vùng và nhu cầu xây dựng đang tăng lên. Các ngành Công nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập chiếm gần 17% giá trị Công nghiệp vùng. Trong đó ngành Công nghiệp hoá chất cơ bản xác định được nhu cầu thị trường [tân dược, nhựa, bao bì PP…] nên khá phát triển. Các ngành khác không ổn định, có chiều hướng sa sút. Sản xuất máy móc tỉ trọng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu lớn phục vụ nông nghiệp. Các ngành Công nghiệp truyền thống như chế biến gỗ, cơ khí tăng trưởng chậm hoặc giảm sút. Công nghiệp phân bố chủ yếu ở các đô thị lớn như Cần Thơ và các thị xã, thị trấn. 7.6.3. Định hướng phát triển - Chú trọng phát triển Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, phát triển các ngành dệt may, da giầy, cơ khí điện tử, vật liệu xây dựng, hoá chất, chế biến thức ăn gia súc, tạo ra những sản phẩm hàm lượng công nghệ cao, đủ sức cạnh tranh trên thi trường trong nước và quốc tế. - Khi có thời cơ, phát triển các khu Công nghiệp, từng bước xây dựng các khu Công nghiệp [làm dứt điểm từng khu, không dàn trải nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. - Tập trung phát triển các ngàh Công nghiệp sử dụng nguồn lao động tại chỗ, bố trí phân tán các xí nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến nhằm giải quyết việc làm, góp phần Công nghiệp hoá nông thôn.

KẾT LUẬN

Tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng là một trong những vấn đề đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học cũng như các nhà hoạch định chiến lược phát triển ở mỗi quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Đối với những nước này, việc khai thác các nguồn lực trong nước cũng như quốc tế cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước có hiệu quả hay không phụ thuộc không nhỏ vào công tác tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Sự vận dụng và phát triển một cách khéo léo các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ công nghiệp đã giúp cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở Đông Á đạt được những thành tựu có tính chất bước ngoặt với sự phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng. Ở Việt Nam, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cũng hết sức đa dạng và đang phát huy những hiệu quả kinh tế nhất định, trong đó nổi bật trong hai thập kỉ gần đây là sự phát triển của các khu công nghiệp tập trung. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp không hoàn toàn bất biến theo thời gian và không gian, vì thế trong hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam, các hình thức này hiện vẫn không ngừng được hoàn thiện và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững mà toàn nhân loại đang hướng tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Các Báo cáo về tình hình phát triển làng nghề và cụm công nghiệp làng nghề ở các tỉnh: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định. 2. GS.TS. Nguyễn Viết Thịnh và nnk tuyển chọn. Lê Bá Thảo - Những công trình khao học Địa lí tiêu biểu. Nxb Giáo dục. H.2007. 3. GS.TS. Lê Thông [chủ biên]. Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm. H.2005. 4. GS.TS. Lê Thông - PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam. Nxb Giáo Dục. H.2000. 5. PGS. TS. Nguyễn Minh Tuệ. Một số vấn đề về Địa lí công nghiệp. [Tài liệu bồi dưỡng giáo viên]. 6. PGS. TS. Nguyễn Minh Tuệ [chủ biên]. Địa lí kinh tế - xã hội đại cương. Nxb Đại học Sư phạm. H.2005. 7. PGS. TS. Ngô Doãn Vịnh [chủ biên]. Hướng tới sự phát triển của đất nước - Một số vấn đề về lí thuyết và ứng dụng. Nxb Chính trị quốc gia.

  1. 2006.

Chủ Đề