Công trình nghiên cứu của nhà bác học

Lễ trao giải thưởng VinFuture hội tụ nhiều tên tuổi kiệt xuất thế giới và công bố những sáng kiến, phát minh có tác động lên hàng triệu người sẽ đưa VN trở thành tâm điểm của giới khoa học, thu hút sự chú ý của thế giới đến với VN.

Thủ tướng Phạm Minh Chính trao giải cho 3 nhà khoa học Mỹ và Canada nhận giải thưởng chính

Trong mùa giải đầu tiên, VinFuture đã tiếp nhận 599 dự án tranh giải đến từ 6 châu lục. Trong đó, có gần 100 dự án đến từ các nhà khoa học nằm trong top 2% các nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất thế giới. Các nhà khoa học nữ cũng có sự góp mặt ấn tượng với tỷ lệ 34,3%. Nhiều người trong số họ đã từng nhận được các giải thưởng cao quý như Giải thưởng Nobel, Giải thưởng Breakthrough, Giải thưởng Tang Prize, Giải thưởng Japan Prize... VN cũng có sự tham gia ấn tượng với 17 dự án. Đây là kết quả vượt xa kỳ vọng với một giải thưởng hoàn toàn mới như VinFuture.

Hội đồng giải thưởng gồm các nhà khoa học hàng đầu thế giới đã tìm ra chủ nhân của Giải thưởng VinFuture mùa đầu tiên trị giá 70 tỉ đồng [3 triệu USD] gồm 3 nhà khoa học: GS Katalin Kariko, GS Drew Weissman [Mỹ] và GS Pieter Rutter Cullis [Canada] với công nghệ vắc xin mRNA cứu sống hàng tỉ người. Công nghệ mRNA đã mở đường tạo ra loại vắc xin ngăn ngừa Covid-19 hiệu quả. Các công ty Pfizer/BioNTech và Moderna đã tạo ra vắc xin ngừa Covid-19 hữu hiệu trong thời gian kỷ lục.

3 giải đặc biệt, mỗi giải trị giá 11,5 tỉ đồng [500.000 USD], gồm: Giải thưởng nhà khoa học nghiên cứu các lĩnh vực mới được trao cho GS Omar M.Yaghi [Mỹ] với công trình tiên phong trong việc khám phá và phát triển vật liệu khung hữu cơ - kim loại [MOFs] có tiềm năng cải thiện cuộc sống hằng ngày của hàng triệu người. Giải thưởng nhà khoa học nữ được trao cho GS Zhenan Bao [Mỹ] với công trình nghiên cứu về phát triển thiết bị điện tử giống như da người và một loạt ứng dụng của các thiết bị này trong y tế và năng lượng. Giải nhà khoa học từ các nước đang phát triển được trao cho cặp vợ chồng GS Quarraisha Abdool Karim và Salim Abdool Karim [Nam Phi] với công tình nghiên cứu ngăn ngừa nguy cơ lây nhiễm HIV và giảm gánh nặng bệnh nhân AIDS.

VinFuture tôn vinh giá trị của khoa học trên phạm vi toàn cầu

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự lễ trao giải, Thủ tướng Phạm Minh Chính trân trọng chào mừng các nhà khoa học nổi tiếng thế giới đã đến VN tham dự lễ trao giải VinFuture và chúc mừng chủ nhân của các giải thưởng mùa đầu tiên. Thủ tướng cho biết 2 năm qua, nhất là trong thời khắc khó khăn nhất của dịch bệnh Covid-19, cả nhân loại đặt niềm tin hy vọng, trông chờ vào các nhà khoa học để tìm ra vắc xin, thuốc chữa phòng chống dịch. “Vắc xin được ví như lá chắn thép của nhân loại để vượt qua đại dịch Covid-19. Cả thế giới biết ơn, ngưỡng mộ các nhà khoa học, những người đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình. Chúng ta có mặt ở đây bình yên, an toàn cũng chính nhờ các nhà khoa học, nhờ có vắc xin”, Thủ tướng bày tỏ.

Theo Thủ tướng, tại VN, phát triển khoa học - công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu, là đột phá chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước đang đẩy mạnh thiết kế cơ chế chính sách, cụ thể hóa đường lối của Đảng, thúc đẩy huy động nguồn lực đổi mới sáng tạo để doanh nghiệp, xã hội và nhân dân vào cuộc đưa khoa học - công nghệ trở thành mục tiêu quan trọng, góp phần phát triển đất nước hùng cường và thịnh vượng. “VN luôn trân trọng, trân quý tôn vinh các nhà khoa học chân chính đóng góp cho sự phát triển nhanh, bền vững của nhân loại. Sứ mệnh của Giải thưởng VinFuture chính là cổ vũ, tôn vinh những nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc mang tính ứng dụng cao, kiến tạo môi trường sống bền vững cho cả thế hệ tương lai”, Thủ tướng nói.

Thủ tướng hoan nghênh và đánh giá cao Tập đoàn Vingroup đã nỗ lực trong việc xây dựng và phát triển Quỹ VinFuture nhằm tôn vinh giá trị của khoa học trên phạm vi toàn cầu. Thủ tướng mong chờ trong thời gian tới sẽ có những bước phát triển mới trong việc ứng dụng các nghiên cứu của các nhà khoa học tại VN.

Những người tạo nên các công nghệ đột phá

Theo đánh giá của giới khoa học công nghệ toàn cầu, một trong những công nghệ vắc xin đột phá trong đại dịch Covid-19 là vắc xin mRNA do Pfizer/BioNTech và Moderna phát triển.

GS Katalin Kariko

Nhưng để đưa được những vắc xin này vào cơ thể người là nhờ công nghệ hạt nano lipid. Tác giả của những công trình này là GS Katalin Kariko, GS Drew Weissman [đều là người Mỹ] và GS Pieter R. Cullis [Canada]. GS Katalin Kariko là người Hungary, lấy bằng TS ở ĐH Szeged cũng của Hungary. Sau đó, bà sang Mỹ làm nghiên cứu sau TS, rồi làm GS trợ giảng và bây giờ là GS thỉnh giảng ở ĐH Pennsylvania [Mỹ], đồng thời là Phó chủ tịch cấp cao của BioNTech. Từ năm 1989, khi làm việc ở ĐH Pennsylvania, bà Kariko tập trung nghiên cứu về ứng dụng trị bệnh của mRNA được phiên mã trong ống nghiệm. Thời gian đó, cũng tại ĐH Pennsylvania, GS Drew Weissman có những kế hoạch đầy tham vọng trong việc tìm kiếm vắc xin cho bệnh nhân AIDS. Hai người tình cờ gặp nhau, Kariko đã chia sẻ về nghiên cứu tạo ra mRNA của bà với GS Weissman và ông Weissman đã nhận ra những tiềm năng độc đáo của công nghệ này. Từ đây, hai nhà nghiên cứu bắt đầu cộng tác cùng nhau.

GS Drew Weissman là một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm. Trong sự nghiệp của mình, ông đã dành hơn 15 năm nghiên cứu về RNA nhằm sản xuất vắc xin với một niềm tin lớn vào khả năng chữa bệnh dường như vô tận của mRNA tùy chỉnh.

Tuy nhiên, bản thân ông không ngờ rằng công nghệ mRNA mà ông đồng sáng tạo với đồng nghiệp cũ, GS Katalin Kariko, đã trở thành một công nghệ bước ngoặt được sử dụng trong một số vắc xin Covid-19 dựa trên mRNA hiện đang được phát triển ở giai đoạn cuối. GS Kariko và GS Weissman đã phát triển công nghệ mRNA biến đổi nucleoside và các cải tiến khác liên quan đến vắc xin mRNA. Đây là công nghệ mà Pfizer/BioNTech và Moderna đã sử dụng trong quá trình phát triển vắc xin của họ. 150 quốc gia đã được hưởng lợi từ sự ra đời của vắc xin Covid-19 mRNA. Đóng góp của hai nhà khoa học này cho nhân loại trong đại dịch Covid-19 đã khiến họ là những tên tuổi nổi bật trong danh sách đề cử nhận giải thưởng Nobel 2021.

Nhưng theo giới khoa học, vắc xin Covid-19 mRNA chỉ trở nên khả thi là nhờ thành tựu nghiên cứu của GS Pieter R.Cullis, Giám đốc Viện Khoa học sự sống tại ĐH British Columbia, Canada. GS Cullis và các đồng nghiệp đã đạt được những tiến bộ mang tính nền tảng trong việc tạo ra và đưa hệ thống các hạt nano lipid [LNP] vào tĩnh mạch dưới hình thức các loại thuốc dạng phân tử nhỏ và thuốc đại phân tử như RNA can thiệp nhỏ [siRNA]. Công trình này góp phần tạo ra 3 loại thuốc đã được các cơ quan quản lý ở Mỹ và châu Âu phê chuẩn để điều trị ung thư và các biến chứng liên quan. Đặc biệt, GS Cullis đã tạo ra đột phá trong việc phát triển các hạt nano lipid cần thiết để bao bọc và bảo vệ mRNA hoạt động. Điều này đã mở ra một ngành khoa học mới và các phương pháp mới trong sản xuất vắc xin mRNA Covid-19 giúp cải thiện cuộc sống hằng ngày của hàng triệu người. Kỹ thuật do GS Cullis tiên phong tạo ra đã được sử dụng thành công để phát triển hệ thống phân phối LNP cho vắc xin mRNA, bao gồm cả những kỹ thuật đang được sử dụng để ứng phó với đại dịch Covid-19.

Quý Hiên

Tin liên quan

Mới đây, trên website của Trường ĐH Y dược Thái Bình đưa lại một bài viết với hàm ý ca ngợi một bác sĩ, có tiêu đề “Bài báo được trích dẫn “khủng khiếp” của bác sĩ ở Thái Bình”.

Nhân vật được nhắc đến trong bài là bác sĩ H.V.Th., giảng viên bộ môn Y học gia đình, Phó trưởng nhóm nghiên cứu mạnh về các bệnh truyền nhiễm mới nổi và tái nổi của Trường ĐH Y dược Thái Bình.

Chỉ trong vòng hơn 2 năm, các công bố quốc tế của bác sĩ này đã có hơn 7.500 lượt trích dẫn. Trong đó, đáng chú ý, có một công trình [bài báo] có lượt trích dẫn lên đến 5.279 lượt và vẫn tiếp tục tăng lên [ngày 3.3, lượt trích dẫn của công trình khoa học này là 5.309, theo Google Scholar - phóng viên].

Bài viết có tiêu đề “Bài báo được trích dẫn “khủng khiếp” của bác sĩ ở Thái Bình” được giới thiệu trên trang chủ Trường ĐH Y dược Thái Bình

Bài báo có lượt trích dẫn “khủng khiếp” đó có tiêu đề là “Hydroxychloroquine and azithromycin as a treatment of Covid‑19: Results of an open‑label non‑randomized clinical trial” [tạm dịch “Sử dụng Hydroxychloroquine và azithromycin để điều trị Covid-19: Kết quả của một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên đối chứng”], đăng trên Tạp chí Int J Antimicrob Agents vào tháng 3.2020.

Tuy nhiên, trong bài viết mà website Trường ĐH Y dược Thái Bình đưa lại, bác sĩ Th. cũng cho biết ông chỉ là đồng tác giả, còn tác giả chính là thầy của ông ở Marseille, Pháp [bác sĩ Th. là nghiên cứu sinh tại Viện Nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm Địa Trung Hải tại Marseille, Pháp, viết tắt là IHU-Marseille]. Công trình này gồm nhiều tác giả, chủ yếu là các giáo sư thuộc IHU-Marseille, chỉ có duy nhất ông Th. là nghiên cứu sinh.

TS Elisabeth Bik, một nhà khoa học người Hà Lan đã cáo buộc công trình của nhóm GS Didier Raoult có những sai phạm trong nghiên cứu

Sau khi xuất hiện bài viết trên, một số nhà khoa học đã bày tỏ sự ngạc nhiên trước thông điệp mà bài viết chuyển tải. TS Ngô Đức Thế, ĐH Manchester, Anh, nhận xét: “Đây là một bài viết quảng cáo cho bài báo bị cáo buộc là một sai phạm nghiên cứu [research misconduct]. Người viết và bên đăng bài hoặc không biết, hoặc đã cố tình lờ đi, việc nó được trích dẫn nhiều không phải vì nó có giá trị khoa học, mà vì nó bị nghi ngờ gian lận. Giới khoa học quốc tế đã chỉ ra những sự nghi ngờ về tính trung thực của nghiên cứu này, mà người khởi xướng là TS Elisabeth Bik, một nhà khoa học người Hà Lan”.

Bị cáo buộc có “hành vi sai trái trong nghiên cứu”

Theo TS Thế, bài báo “Sử dụng Hydroxychloroquine và azithromycin để điều trị Covid-19: Kết quả của một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên đối chứng” là của một nhóm nhà khoa học Pháp, đứng đầu là GS Didier Raoult [IHU-Méditerranée Infection, Marseille, Pháp], với nội dung công bố công trình thử nghiệm điều trị các bệnh nhân Covid-19 bằng thuốc chữa sốt rét [Hydroxychloroquine, viết tắt là HCQ]. Bài báo được nộp ngày 16.3.2020 cho Tạp chí International Journal of Antimicrobial Agents [NXB Elsevier]. Ngay ngày hôm sau [17.3.2000], bài báo được đăng và xuất hiện online từ ngày 20.3.2020. Theo giới khoa học thì đây là bài báo được xuất bản siêu nhanh.

Tốc độ phản biện "siêu tốc" là một dấu hiệu khiến nhiều ý kiến trong cộng đồng khoa học thế giới quan ngại về sự đáng tin trong công bố của nhóm GS Didier Raoult

Bài báo từng tạo ra một cơn cuồng HCQ như một liệu pháp chữa Covid-19, thậm chí FDA [Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ] từng phê duyệt khẩn cấp sử dụng HCQ cho điều trị Covid-19, nhưng sau đó đã phải rút lại. Cựu tổng thống Mỹ Donald Trump từng là một "fan cuồng" của HCQ.

TS Thế cho biết, TS Elisabeth Bik đã phân tích bài báo và viết một bình luận trên blog của mình, nêu lên những quan ngại về kết quả khoa học của bài báo này, và cho rằng các nghiên cứu trong bài báo rất đáng nghi ngờ, như một điển hình của hành vi sai trái trong nghiên cứu [research misconduct].

Đầu tiên là ở tốc độ phản biện siêu nhanh trong vòng 24 giờ, một tốc độ chưa từng có để phản biện một công trình nghiên cứu y khoa lâm sàng [hay thậm chí với bất kỳ ngành nào].

Thứ hai là ở vấn đề y đức và tốc độ tiến hành ở mức độ siêu nhanh như: Cục Quản lý An toàn Dược phẩm Pháp phê duyệt quy trình thử nghiệm này vào ngày 5.3.2020, và thử nghiệm được Hội đồng Y đức Pháp phê duyệt sau đó một ngày [6.3.2020]. Và chỉ 10 ngày sau đó, bài báo được hoàn thành và nộp cho tạp chí. Nhưng các kết quả công bố trong bài báo và hồ sơ thử nghiệm đã khẳng định các bệnh nhân được thử nghiệm kéo dài ít nhất 14 ngày, có nghĩa là hoặc là thử nghiệm đã được thực hiện trước khi được phê duyệt, hoặc kết quả là nguỵ tạo.

TS Bik còn cáo buộc thử nghiệm với số lượng mẫu khá nhỏ [42 mẫu, với 26 người sử dụng HCQ, và 16 người là đối chứng], không đủ phân bố với nhiều độ tuổi, không tuân thủ về mẫu ngẫu nhiên. Đồng thời, TS Bik cũng chỉ ra vấn đề trong các phân tích PRC trong bài báo, và sự biến mất của 6 bệnh nhân trong nhóm điều trị. Điều đáng ngại hơn là quy trình phản biện bài báo ở mức độ siêu nhanh.

Trước những cáo buộc trên, GS Didier Raoult đã liên tiếp dựng lên những tấn công vào TS Bik, và cùng với nhiều người ủng hộ khác cáo buộc TS Bik nhận tài trợ và dùng Pubeer [một diễn đàn bình duyệt hậu xuất bản] như một công cụ trục lợi. Thậm chí, nhiều người tham gia phản biện trên Pubeer về HCQ cũng chịu chung số phận như TS Bik: họ bị quấy rối, thậm chí đe dọa đến tính mạng. TS Elisabeth Bik cho biết, thậm chí IHU- Marseille đã đâm đơn kiện bà.

Thư ngỏ có chữ ký của hơn 2.200 nhà khoa học kêu gọi cộng đồng khoa học lên tiếng bảo vệ TS Elisabeth Bik

Vì thế, TS Lonni Besançon, một nhà khoa học đang làm nghiên cứu sau tiến sĩ tại ĐH Monash, Úc, đã cùng nhiều nhà khoa học quốc tế viết một thư mở kêu gọi cộng đồng khoa học cùng lên tiếng bảo vệ TS Elisabeth Bik - bảo vệ những nỗ lực phản biện khoa học của bà. Lá thư mở có hơn 2.200 nhà khoa học ký tên ủng hộ Bik.

CNRS [Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp] cũng đã bày tỏ sự thất vọng về phản ứng “chống lại Elisabeth Bik và nhà nghiên cứu” của IHU-Marseille. Theo CNRS, phản biện khoa học là điều không thể thiếu, vẫn phải là một trong những nguyên tắc cơ bản của nghiên cứu, rất quan trọng đối với sự tiến bộ của tri thức. Vì thế, kiểu tư pháp hóa này chỉ có thể dẫn đến những lạm dụng có hại cho quá trình nghiên cứu khoa học.

CNRS [Trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp] cũng đã bày tỏ sự thất vọng về phản ứng “chống lại Elisabeth Bik và nhà nghiên cứu” của IHU-Marseille

“Sau đó, uy tín của GS Didier Raoult ngày càng đi xuống, thậm chí IHU Méditerranée Infection cũng không còn tín nhiệm ông ấy. Trong khi mới đây TS Bik được trao Giải thưởng John Maddox năm 2021 cho những đóng góp xuất sắc trong việc vạch mặt các mối đe dọa phổ biến đối với tính liêm chính của nghiên cứu trong các bài báo khoa học”, TS Thế cho biết.

Trao đổi với Báo Thanh Niên, bác sĩ H.V.Th cho biết, ông không xem việc mình được là đồng tác giả với một bài báo khoa học được trích dẫn “khủng” là một “thành tích”. Hơn nữa, đây là sản phẩm của cả nhóm nhà khoa học mà ông chỉ là một người tham gia nghiên cứu. Còn tham gia ở mức độ nào, đóng góp cho công trình khoa học đến đâu, thì ông Th. từ chối trả lời.

Tuy nhiên, ông Th. cũng nhận định: “Lượt trích dẫn của bài báo phản ánh tầm ảnh hưởng của bài báo đó đối với giới khoa học”, “số lượt trích dẫn cao chứng tỏ tầm ảnh hưởng của nó lớn”.

Khi được hỏi ông Th. có biết hay không về những cáo buộc của TS Bik và nhiều nhà khoa học với công trình mà mình tham gia, ông Th. tiếp tục từ chối trả lời. Nhưng ông Th. cũng bày tỏ sự phản đối việc nhận định bài báo được trích dẫn nhiều vì nó bị chỉ trích. “Cần phải đọc hơn 5.000 lượt trích dẫn đó. Cần phải vào link của từng bài báo đã trích dẫn [bài được trình dẫn là về HCQ của nhóm GS Didier Raoult mà ông Th. là đồng tác giả - phóng viên] thì sẽ thấy là vì sao nó được trích dẫn nhiều”, ông Th. nói.

Thanh Niên sẽ tiếp tục cập nhật về câu chuyện này.

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề