Cứu đuối như thế nào

Đuối nước là một dạng của ngạt, do nước bị hít vào phổi hoặc tắc đường thở do co thắt thanh quản khi nạn nhân ở trong nước. Khi ngạt nước, nạn nhân bị ngừng thở, tim đập chậm lại theo phản xạ. Tình trạng ngừng thở tiếp tục dẫn đến thiếu oxy máu, gây tăng nhịp tim, huyết áp. Hậu quả cuối cùng là nhịp tim chậm dần lại, rối loạn nhịp, ngừng tim và tử vong.

Để xác nhận một người có đang bị đuối nước hay không không phải là một điều dễ dàng gì. Nhiều người lầm tưởng rằng những nạn nhân bị đuối nước có thể kêu cứu hoặc té nước để báo động cho người trên bờ biết như trên tivi, phim ảnh. Điều này là hoàn toàn sai lầm. Trên thực tế nếu như nạn nhân đang thực sự bị đuối nước, họ sẽ không thể tạo ra bất cứ tiếng động nào nên phải đặc biệt chú ý đến tay nạn nhân sẽ vùng vẫy trên mặt nước bởi chỉ trong vòng 20-60 giây nạn nhân có thể chết đuối.

Cứu đuối như thế nào


Khi bị đuối nước, khả năng tử vong rất cao hoặc có thể để lại di chứng tổn thương não nặng nề. Tuy nhiên nếu nạn nhân được sơ cứu kịp thời, tích cực và đúng phương pháp có khả năng được cứu sống. Vì vậy, việc xử trí cấp cứu đúng cách trong trường hợp này là rất quan trọng.

Bước 1: Nhanh chóng đưa nạn nhân ra khỏi mặt nước bằng mọi cách.

Cứu đuối như thế nào

Cứu đuối như thế nào


Bước 2: Cho nạn nhân nằm ở nơi thoáng khí và giữ ấm. Nếu nạn nhân bất tỉnh, hãy kiểm tra xem còn thở không bằng cách quan sát lồng ngực có di động hay không.
Nếu nạn nhân có dấu hiệu ngưng thở thì nhanh chóng thực hiện hô hấp nhân tạo: Đặt nạn nhân nằm ưỡn cổ và nghiêng mình sang bên trái, dùng gạc hay khăn vải lau sạch dãi, chất thải hoặc dị vật ở miệng và mũi nạn nhân. Tiếp đến người cấp cứu cần thực hiện hà hơi thổi ngạt cho nạn nhân. Sau 5 lần hô hấp nhân tạo khi bắt mạch mà tim vẫn ngừng đập thì bước tiếp theo là phải ép tim ngoài lồng ngực.
Bước 3: Sau khi hô hấp nhân tạo mà mạch vẫn ngừng đập, người cấp cứu cần tiến hành ép tim ngoài lồng ngực. Nếu không bắt được mạch chứng tỏ tim đã ngừng đập, cần phải hô hấp nhân tạo kèm theo ép tim ngoài lồng ngực (ép ở 1/2 dưới xương ức bên trái) theo công thức 15:2 (nghĩa là ép tim 15 cái thì thổi ngạt 2 cái) nếu có 2 người thực hiện, hoặc 30/2 nếu có một người. Kiên trì thực hiện cho đến khi mạch đập và nạn nhân thở trở lại.

Cứu đuối như thế nào


Bước 4: Sau khi nạn nhân tỉnh lại sẽ nôn ra nhiều nước nên cần đặt họ ở tư thế nằm nghiêng, kê cao gối hai bên vai, nới rộng quần áo để tránh bị ngạt thở.
Bước 5: Sau sơ cứu ban đầu, người bị đuối nước đã tỉnh lại, cần đưa đến cơ sở y tế để kiểm tra, mục đích xem nạn nhân có bị phù phổi cấp không. Cần lau khô người cho họ, thay quần áo và ủ ấm sau đó nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất để các bác sĩ xử lý các bước tiếp theo.


Lưu ý:
- Không dốc ngược nạn nhân đuối nước, vác lên vai rồi chạy.
- Nếu thấy người bị nạn có dấu hiệu bị ngưng thở, ngưng tim người cứu hộ nên lập tức tiến hành cấp cứu hô hấp nhân tạo và ấn tim ngay tại nơi xảy ra tai nạn hoặc trên đường đến bệnh viện chứ không chờ đến cơ sở y tế. Không thì có thể làm cho não và các cơ quan khác trong cơ thể người bị nạn bị thiếu oxy kéo dài gây chết não dẫn đến tử vong hoặc để lại di chứng nghiêm trọng.

BS Trần Anh Thông - khoa Cấp cứu

Cứu đuối như thế nào

Sơ cứu đuối nước là kỹ thuật rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự sống còn cũng như tình trạng biến chứng của nạn nhân. Do đó, khi sơ cứu bạn phải xử lý cẩn thận và đúng phương pháp.

Thời điểm vàng để thực hiện sơ cứu đuối nước

Đuối nước là một dạng khác của ngạt nước, do nước chảy vào phổi hoặc bị tắt đường thở do dây thanh quản bị thắt lại khi nạn nhân ở lâu trong nước. Đây là tai nạn thường xảy ra khi đi bơi ở biển, hồ, sông,… hoặc tham gia các hoạt động dưới nước, hay có khi xảy ra tại nhà trong bồn nước, rãnh nước,…

Khi bị đuối nước, nạn nhân có dấu hiệu ngừng thở, nhịp tim chậm dần. Điều này dẫn đến thiếu oxy máu cung cấp lên não, huyết áp tăng. Nếu nạn nhân ngừng thở kéo dài từ 20 giây đến 2-5 phút sẽ làm co thắt thanh quản, sau đó thở gấp khiến cho nước hoặc vật lạ bị nạn nhân hít vào phổi. Hậu quả tiếp theo là nhịp tim chậm lại, tim ngừng đập và tình huống xấu nhất là tử vong.

Cứu đuối như thế nào

Vì vậy, để cứu người bị ngạt nước, bạn phải thực hiện sơ cứu đuối nước tại chỗ và ngăn chặn tình huống xấu nhất xảy ra. Thời điểm tốt nhất để cứu nạn nhân chính là khi xuất hiện cơn ngừng thở đầu tiên trong khoảng 1-4 phút và xử lý những chấn thương đi kèm cẩn thận nhất.

SKĐS - Hàng năm nhất là mùa hè có nhiều người bị đuối nước khi đi tắm biển, tắm hồ hoặc do nghề nghiệp tiếp xúc với sông biển.

Tai nạn do đuối nước có thể xảy ra trong các trường hợp: Ngạt nước, những người không biết bơi ngã xuống nước, hoặc trẻ em ngã cắm đầu vào chậu nước hay bồn tắm; ngất đột ngột khi vừa tiếp xúc với nước; lặn sâu dưới nước khi hết hơi không ngoi lên kịp bị ngạt; bơi quá mệt, cơ thể mất nhiệt do nước lạnh, bị chuột rút rồi ngất đi… Hậu quả có thể dẫn tới các di chứng nặng nề hoặc tử vong ở trẻ.

Chính vì vậy, sơ cứu đuối nước là một phần vô cùng quan trọng để giảm tỷ lệ tử vong và di chứng sau đuối nước ở trẻ.

1. Nguyên tắc cấp cứu tại chỗ ngạt nước, đuối nước

Nguyên tắc này cần khẩn trương, đúng phương pháp với mục đích cấp cứu là giải phóng đường thở và cung cấp oxy cho nạn nhân. Do vậy, việc làm đầu tiên cần đưa nạn nhân ra khỏi nước:

- Nếu nạn nhân còn tỉnh và giãy giụa dưới nước, cần khẩn trương tìm cách đưa họ lên bờ. Nếu không biết bơi ta phải tìm khúc gỗ, phao… ném xuống cho họ bám vào để lên bờ hoặc chạy ngay đi tìm người có khả năng đến cứu.

- Tuyệt đối không nhảy xuống nước nếu không biết bơi. Vì nạn nhân lúc này trong tình trạng hoảng loạn, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì với được, kể cả người cứu nạn. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở.

- Nếu nạn nhân bất tỉnh dưới nước (chỉ xuống cứu khi người cứu biết bơi). Nếu không thì gọi người hỗ trợ hoặc dùng thuyền để ra cứu.

Cứu đuối như thế nào

Nguyên tắc cấp cứu tại chỗ khi bị đuốii nước, cần khẩn trương và đúng phương pháp.

Ngay sau khi đưa được nạn nhân vào bờ, cần tiến hành cấp cứu tại chỗ:

Với trẻ lớn và người lớn:

- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm ngửa trên mặt phẳng cứng. Nếu bệnh nhân tím tái, không thể tự thở, tim ngừng đập (sờ mạch không có) và không có bất cứ phản xạ nào thì phải ấn tim ngoài lồng ngực: Dùng hai tay chồng lên nhau đặt ngay vào vị trí một nửa dưới xương ức và ấn tim với tần số ép khoảng 100 lần/1 phút, đồng thời phải khai thông đường thở bằng cách dùng gạc hay khăn vải móc đờm dãi, dị vật khỏi miệng nạn nhân và hà hơi thổi ngạt, hô hấp nhân tạo với phương pháp miệng thổi miệng cho nạn nhân.

- Nếu chỉ có một người tiến hành sơ cấp cứu, thì ấn tim ngoài lồng ngực 15 - 30 nhịp, sau đó hà hơi thổi ngạt 2 lần và tiếp tục lặp lại việc ấn tim ngoài lồng ngực với chu kỳ 15 - 30 lần ấn tim, 2 lần hà hơi thổi ngạt.

- Nếu có hai người cấp cứu thì một người ấn tim ngoài lồng ngực, một người hà hơi thổi ngạt, kiên trì thực hiện cho đến khi nạn nhân hồi tỉnh trở lại hoặc cho đến khi nạn nhân được đưa đến cơ sở y tế gần nhất.

  • Kỹ năng đơn giản phòng chống đuối nước cho trẻ

  • Đuối nước ở trẻ cần sơ cứu đúng

  • Ðề phòng đuối nước cạn

Với trẻ nhỏ:

- Đặt trẻ nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu trẻ bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là trẻ đã ngưng thở; thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau đó trẻ vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như tim đã ngưng đập, cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:

+ Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 đốt ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).

+ Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1 - 8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 đốt ngón tay. Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi).

- Vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này cho đến khi nạn nhân tự thở lại được hoặc có sự giúp đỡ của nhân viên y tế. Việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn.

- Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân vẫn còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp cứu. Quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho nạn nhân.

- Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư thế an toàn, đầu nằm nghiêng, kê gối dưới hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.

Cứu đuối như thế nào

Tai nạn do đuối nước có thể xảy ra trong các trường hợp: Ngạt nước, những người không biết bơi ngã xuống nước...

2. Lưu ý  khi cấp cứu người ngạt nước, đuối nước

- Không được chậm trễ trong cấp cứu người bị đuối nước, thay vì tìm cách gọi xe cấp cứu, tìm cho được đầy đủ các phương tiện cấp cứu... thì phải bằng mọi cách và khả năng hiểu biết cấp cứu nạn nhân ngay.

- Không nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà chỉ cần chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết! Trong quá trình hồi sức cấp cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài. Nếu là nước sông, hồ thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do hiện tượng thẩm thấu (nước sông có nồng độ loãng hơn máu).

- Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân, nhất là trẻ nhỏ.

Với ngạt nước, sơ cứu tại chỗ đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của người bị nạn.

3. Phòng ngạt nước, đuối nước như thế nào?

Ngoài việc sơ cứu kịp thời phòng tránh đuối nước là một giải pháp tối ưu trong việc giảm thiểu hậu quả.

Cứu đuối như thế nào

Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân.

Đối với trẻ em

Không bơi, chơi ở những nơi gần sông, hồ… khi không có người lớn giám sát.

Những nguyên tắc an toàn khi bơi:

+ Không nhảy cắm đầu ở những nơi không có chỉ dẫn

+ Không tắm, bơi ở những nơi có nước sâu, chảy xiết, xoáy và không có người lớn biết bơi & cứu đuối.

+ Không bơi khi trời đã tối, có sấm chớp, mưa.

+ Tuyệt đối tuân theo các bảng chỉ dẫn nguy hiểm.

+ Phải khởi động trước khi xuống nước.

+ Không ăn uống khi đang bơi để tránh sặc nước.

+ Không dùng các phao bơm hơi.

+ Không đi tắm bơi lội ở ao hồ một mình mà không có người lớn biết bơi đi kèm.

Đối với người lớn

Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không. Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền. Không ăn no, không uống rượu trước khi xuống nước.

Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát. Cần thực hiện nghiêm túc về an toàn giao thông đường thủy như: An toàn về phương tiện, có đầy đủ phao cứu sinh, áo phao, chở đúng số người quy định.