Cửu tinh năm 2023

Cửa chính nhà hướng Đông

Muốn an lạc phải biết chấp nhận những thứ mình đang có, nhiều vị tìm đến Khải Toàn chia sẻ những nổi khổ, thực tình các vị ấy vẫn còn rất may mắn, may mắn hơn cả vạn người, vì còn người thân, còn sức khỏe, còn công việc, duy chỉ có tâm trí nhiễu loạn, tâm trí bất an, chính vì thế tự cho mình kém may mắn. Phương thuốc cho tâm trí là sự tu tập, không phải phong thủy.

Cửa chính nhà hướng Đông đại diện cho con trai trưởng thường xuyên vắng nhà khi trưởng thành hoặc làm việc xa, nếu hướng Đông bị khuyết góc đại diện vận trình con trai trưởng không tốt hoặc không ở cùng cha mẹ, thậm chí ngôi nhà này khó có con trai. hướng Đông có 3 sơn: GIÁP – MÃO – ẤT, tổng cộng có 3 quẻ trong vận 8.
Để biết cách đo tọa độ và phân cung ngôi nhà, các bạn nên xem video “hướng dẫn đo tọa độ nhà” trong kênh của Khải Toàn, đây là kiến thức quan trọng để chỉnh thể phong thủy một ngôi nhà, các bạn có thể lên google tìm “Thầy Khải Toàn”, vào website để xem thêm các bài viết Dụng thần bát tự và các bài về Huyền Không Phi Tinh.

Huyền không phi tinh là môn dễ học nhưng khó tinh thông. Lập quẻ theo thuật số Huyền không phi tinh, kết hợp bố cục bên trong ngôi nhà, có thể luận được thời điểm tốt xấu của một ngôi nhà, biết được vận của ngôi nhà theo từng năm cụ thể, có thể nắm bắt vận của những thành viên trong gia đình. Bày trí đồ vật theo phong thủy theo HKPT có thể dùng những vật phẩm đơn giản như đồ đồng, tranh ảnh, màu sắc, hồ nước, dọn dẹp và thanh tẩy nhà cửa… vẫn có thể đón vận may, tăng tài lộc hoặc tăng nhân đinh.

Văn tự trên website này trình bày quẻ chính hướng, mời các vị xem các quẻ nhà hướng Đông còn lại theo Huyền không phi tinh trong video trên kênh youtube Khải Toàn Phong thủy.

Tóm tắt Huyền không phi tinh

– Số 9 ở phương trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly – Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa.
– Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN – Mộc, nên số 3 mang hành Mộc.
– Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI – Kim, nên số 7 mang hành Kim.
– Số 2 là phía bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN – Thổ, nên số 2 mang hành Thổ.
– Số 4 là phía bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN – Mộc, nên số 4 mang hành Mộc.
– Số 6 là “chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀN – Kim, nên số 6 có hành Kim.
– Số 8 là “chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ CẤN – Thổ, nên số 8 mang hành Thổ.
– Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy.
– Số 5 nằm ở chính giữa [tức trung cung]. Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ.

Đặc Tính Cửu Tinh Trong Huyền Không Phi tinh

Huyền Không phi tinh dựa vào tính chất và sự di chuyển của 9 sao [tức Cửu tinh hay 9 số] mà đoán định họa, phúc của từng căn nhà [dương trạch] hay từng phần mộ [âm trạch]. Do đó, biết được tính chất của từng sao, cũng như quỹ đạo vận hành của chúng là điều căn bản cần thiết cho tất cả những ai muốn tìm hiểu hay nghiên cứu về Huyền không học. Cho nên trước khi đi vào những nguyên lý căn bản của Huyền không học thì cần phải biết sơ qua về tính chất của Cửu tinh.

Cửu tinh: tức là 9 con số, từ số 1 tới số 9, với mỗi số đều có tính chất và Ngũ hành riêng biệt, đại lược như sau:

Số 1: còn gọi là sao Nhất Bạch hoặc Tham Lang: có những tính chất như sau:

• Về Ngũ Hành: thuộc Thủy
• Về màu sắc: thuộc màu trắng
• Về cơ thể: là thận, tai và máu huyết
• Về người: là con trai thứ trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng hay đi với những sao 4, 6 thì chủ về văn tài xuất chúng, công danh, sự nghiệp thăng tiến. Nếu suy, tử thì mắc bệnh về thận và khí huyết, công danh trắc trở, bị trộm cướp hay trở thành trộm cướp.

Số 2: còn gọi là sao Nhị Hắc hay Cự Môn, có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Thổ.
• Về màu sắc : thuộc màu đen.
• Về cơ thể: là bụng và dạ dày.
• Về người: là mẹ hoặc vợ trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng thì điền sản sung túc, phát về võ nghiệp, con cháu đông đúc. Suy thì bệnh tật liên miên, trong nhà xuất hiện quả phụ.

 Số 3: còn gọi là sao Tam Bích hay Lộc Tồn, có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Mộc.
• Về màu sắc: thuộc màu xanh lá cây.
• Về cơ thể: mật, vai và 2 tay.
• Về người: là con trai trưởng trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng thì con trưởng phát đạt, lợi cho kinh doanh, vợ cả tốt. Nếu suy thì khắc vợ và hay bị kiện tụng, tranh chấp.

Số 4: còn gọi là sao Tứ Lục hoặc Văn Xương, có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Mộc.
• Về màu sắc: thuộc màu xanh dương [xanh nước biển].
• Về cơ thể: gan, đùi và 2 chân.
• Về người: là con gái trưởng trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng hoặc đi với sao Nhất Bạch thì văn chương nổi tiếng, đỗ đạt cao, con gái xinh đẹp, lấy chồng giàu sang. Nếu suy, tử thì trong nhà xuất hiện người dâm đãng, phiêu bạt đó đây, bệnh về thần kinh.

Số 5: còn gọi là sao Ngũ Hoàng, có những tính chất sau:

• Về Ngũ Hành: thuộc Thổ.
• Về màu sắc: thuộc màu vàng.
• Về cơ thể và con người: không.
• Về tính chất: nếu vượng thì tài lộc, nhân đinh đều phát, phú quý song toàn. Nếu suy thì chủ nhiều hung họa, bệnh tật, tai nạn, chết chóc…

Số 6: còn gọi là sao Lục Bạch hoặc Vũ Khúc: có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Kim.
• Về màu sắc: thuộc màu trắng, bạc.
• Về cơ thể: đầu, mũi, cổ, xương, ruột già.
• Về người: là chồng hoặc cha trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng hoặc đi với sao Nhất Bạch thì công danh hiển hách, văn võ song toàn. Nếu suy thì khắc vợ, mất con, lại hay bị quan tụng, xương cốt dễ gãy.

Số 7: còn gọi là sao Thất Xích hoặc Phá Quân: có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Kim.
• Về màu sắc: thuộc màu đỏ.
• Về cơ thể: phổi, miệng, lưỡi.
• Về người: là con gái út trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng thì hoạnh phát về võ nghiệp hoặc kinh doanh. Nếu suy thì bị trộm cướp hay tiểu nhân làm hại, đễ mắc tai họa về hỏa tai hay thị phi, hình ngục.

Số 8: còn gọi là sao Bát Bạch hoặc Tả Phù: có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Thổ.
• Về màu sắc: thuộc màu trắng.
• Về cơ thể: lưng, ngực và lá lách.
• Về người: là con trai út trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng thì nhiều ruộng đất, nhà cửa, con cái hiếu thảo, tài đinh đều phát. Nếu suy thì tổn thương con nhỏ, dễ bị ôn dịch.

Số 9: còn gọi là sao Cửu tử hay Hữu Bật, có những tính chất sau:

• Về Ngũ hành: thuộc Hỏa.
• Về màu sắc: màu đỏ tía.
• Về cơ thể: mắt, tim, ấn đường.
• Về người: con gái thứ trong gia đình.
• Về tính chất: nếu vượng thì nhiều văn tài, quý hiển sống lâu. Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn, đau mắt, sinh đẻ khó khăn.

Trong những lý luận tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự sinh hay hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời [Thượng Đế], nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh – Vượng – Tử – Tuyệt của vạn vật rồi vậy.

– KIM sinh THỦY
– THỦY sinh MỘC
– MỘC sinh HỎA
– HỎA sinh THỔ
– THỔ sinh KIM.

– KIM khắc MỘC.
– MỘC khắc THỔ.
– THỔ khắc THỦY.
– THỦY khắc HỎA.
– HỎA khắc KIM.

Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là:
– Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp.
– Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than.
– Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt.
– Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt.
– Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục.

Ngũ hành phản khắc

Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc.

Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là:
– Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy.
– Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu.
– Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt.
– Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn.
– Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt.

Nhất Bạch 
11 : Đào hoa, vượng ứng với quan tinh, chủ văn xương, độc thư, thông minh, văn tài xuất chúng. Suy ứng với tai máu thận suy, di tinh tiết huyết, dâm đãng, x ảy thai, bất đắc chí.
12 : Dễ mắc bệnh dạ dày, ruột, bệnh thận, tai máu, nữ mắc phụ khoa, đẻ non, sảy thai. Trung nam không thuận phải ly tổ bôn ba, quan lộc bị x âm hại.
13 : Tranh chấp, quan phi, đạo tặc, phá tài
14 : Ra ngoài có lợi, dễ thăng chức, văn chương phát quý nổi danh, tài vượng, phụ nữ sang quý. Nếu suy sinh dâm đãng.
15 : Tổn hại nhân đinh, dễ mắc bệnh thận, tai máu, trung nam bị tổn hại.
16 : Phú quý cát lợi, văn tài thông minh, hãm thì dâm loạn
17 : Đào hoa, ra ngoài cát lợi. Nếu hãm thì thương tích, thị phi, tham luyến tửu sắc.
18 : Phạm bệnh tật tai máu, trung nam bất lợi tha hương lưu lạc.
19 : Thuỷ hoả không dung, phạm bệnh tật mắt, tinh thần, trước tốt sau x ấu.

Nhị Hắc

21 : Nữ bệnh phụ khoa, tràng vị, nam mắc bệnh tai máu thận, trung nam tổn hại.
22 : Bệnh tật, nữ bệnh phụ khoa, nam mắc bệnh đường ruột. Đắc v ận thì giàu có.
23 : Cách Đấu Ngưu sát chủ quan phi, kiện tụng, khẩu thiệt. Mẹ già tổn hại.
24 : Bất hoà, bệnh phong hàn, khẩu thiệt, kiện tụng, sinh nở khó, hại mẹ già.
25 : Tổn thất nhân đinh, cô quả, mẹ nhiều bệnh.
26 : Đất đai vượng phát, tăng tài, buôn bán phát đạt.
27 : Tiến tài, nhiều hỷ sự, nếu hãm phạm đào hoa, khẩu thiệt, tán tài.
28 : Cách hợp thập chủ cát lợi, dễ đi xa
29 : Sinh đẻ nhiều, nếu v ượng chủ văn tài, thất v ận phòng bệnh tật, sinh người ngu đần.

Tam Bích

31 : Thị phi khẩu thiệt tranh đấu phá tài. Nếu đắc lệnh thì phát quý.
32 : Cách Đấu Ngưu sát chủ thị phi tranh đấu đạo tặc, hại mẹ già, bệnh đường ruột.
33 : Quan phi, thị phi, đạo tặc, đắc lệnh thì phú quý.
34 : Đào hoa, kiếp tặc hại cho nữ. Đắc lệnh văn tài phú quý nổi danh.
35 : Hại tì vị, chủ nhân bất an, hại cho trưởng nam.
36 : Trưởng nam bất lợi, quan phi, thương tích chân tay, đắc lệnh thì quyền uy, phát văn tài.
37 : Phá tài, kiếp đạo, dâm đãng, hại trưởng nam
38 : Bất lợi nhiều bệnh tật, phá tài, tuyệt hậu
39 : Thông minh tiến tài, sinh quý tử

Tứ Lục

41 : Đào hoa dâm đãng, nếu sinh vượng thì xuất ngoại thành danh, v ăn tài xuất chúng
42 : Bệnh tật tỳ vị, hại mẹ già.
43: Dâm loạn, đạo tặc, hại thiếu nữ
44 : Đào hoa, ly tổ, sinh v ượng thì có quý nhân phù trợ, văn tài thành danh.
45 : Nhiều bệnh tốn tài. Sinh vượng thì nhà cửa hưng v ượng
46 : Trước lành sau x ấu, khó sinh, bất lợi trưởng nữ
47 : Cô qủa bất hoà, nạn đao thương thổ huyết, hại trưởng nữ. Sinh vượng thì xuất hiện giai nhân tài sắc
48 : Tổn tài, hại thiếu nam, bệnh phong tật thấp khớp, đào hoa. Tốt lành tiến tài, lợi điền sản.
49 : Sinh quả phụ, đào hoa. Sinh vượng thì Mộc Hoả thông minh, xuất hiện danh sĩ.

Ngũ Hoàng

51 : Tổn nhân đinh, hại trung nam nhiều bệnh tật, bệnh tai máu thận.
52 : Sinh cô quả phụ, nhiều bệnh, bệnh tỳ vị.
53 : Hại trưởng nam, phá tài, nhiều bệnh tật
54 : Phá tài, hại nhân khẩu, bệnh tật
55 : Rất x ấu chủ bệnh tật, hao người tốn của
56 : Nếu sinh vượng thì rất tốt
57 : Bệnh tật, kiếp đạo, đắc thì tiến tài nhiều hỷ sự
58 : Bất lợi thiếu nam, đắc thì cát chủ hoạnh phát tài
59: Sinh nở khó, bệnh tật, thương vong, ăn chơi phá tài

Lục Bạch

61 : Đào hoa dâm loạn, sinh nở khó. Đắc thì quan lộc hanh thông
62 : Bệnh tật, phụ khoa, tổn tài
63 : Tai nạn, bất an, hại trưởng nam
64 : Ly tán, tai nạn, bất an, hại trưởng nữ
65 : Bệnh tinh thần, đắc thì phát tài
66 : Hại trưởng nam, người già, đắc thì quan vận tốt, quyền hành, văn tài xuất hiện.
67 : Đao kiếm sát phạm đao thương, tổn tài, thị phi quan tụng
68 : Đại cát nhiều hỷ sự, lợi quan lộc
69 : Bệnh phế huyết hoả tai, hại cho cha già

Thất Xích

71 : Kim thuỷ đa tình đào hoa, ly hương xuất ngoại, tổn hại lục súc
72 : Khẩu thiệt thị phi hoả tai. đắc vận thì hợp thành Hoả tiên thiên lợi nhị hắc nên phát tài.
73 : Thương trưởng nam, bội nghĩa, thị phi, bệnh tật, quan phi
74 : Hại trưởng nữ, đao thương, bệnh thần kinh
75 : Nhiều bệnh bất an, tửu sắc phá tài
76 : Đao kiếm sát, tổn tài, sinh nhiều nữ
77 : Tổn tài, thị phi. Sinh vượng thì hỷ sự phát tài, sinh nhiều nữ
78 : Cầu tài danh đều lợi, nam nữ đa tình
79 : Tai nạn bệnh tâm khí, hại cho nữ nhỏ

Bát Bạch

81 : Hại trung nam, bệnh tai máu thận
82 : Bệnh tật, hại mẹ già, thiếu niên lao khổ, sinh vượng thì phát tài chủ tốt
83 : Bất lợi, ly hôn, hại thiếu nam
84 : Cô quả, khó sinh nở, hại thiếu nam
85 : Bệnh tật, tai nạn, hại thiếu nam
86 : Văn tài, thông minh cát lợi, sinh quý tử
87 : Sinh v ượng thì tốt cho thiếu nam, thiếu nữ, tài lộc vượng
88 : Đại cát, sinh nhiều con trai
89 : Đinh tài đều vượng nhiều hỷ sự

Cửu Tử

91 : Cách Thuỷ Hoả Ký Tế lợi văn chương, có nhiều danh vọng, công danh tốt.
92 : Phạm bệnh tật, bệnh mắt, phụ khoa
93 : Quan phi khẩu thiệt. Nếu sinh vượng sinh văn sĩ
94 : Đào hoa, hao tài
95 : Nhiều bệnh tật, hoả tai
96 : Sinh bệnh tật, bệnh não, thổ huyết, quan hình
97 : Phá tại, hại thiếu nữ, quan phi khẩu thiệt
98 : Cát lành hỷ sự
99 : Bệnh mắt bệnh thần kinh, sinh vượng thì tốt

* Ví dụ 2: Cũng nhà tọa TÝ hướng NGỌ, xây xong và vào ở năm 2000 [tức vận 7].

Đến năm 2007 mới coi Phong thủy. Vì nhà còn mới, chưa tu sửa gì nhiều, chủ nhà cũng chưa bao giờ đi xa quá 1 tháng, cho nên khi lập trạch vận thì vẫn phải dùng Vận 7 để lập Vận bàn. Sau đó lấy Tọa, Hướng bàn thì sẽ thấy Hướng tinh 7 tới phía BẮC, Hướng tinh 8 tới phía TÂY NAM. Hướng tinh 9 tới phía ĐÔNG, Hướng tinh 1 tới phía ĐÔNG NAM. Vì nhà này nhập trạch trong vận 7, nên lúc đó phía BẮC có Hướng tinh số 7, nên là 1 khu vực tốt [đắc VƯỢNG KHÍ]. Còn phía ĐÔNG NAM có Hướng tinh số 1, lúc đó trong Vận 7 còn là Tử khí nên là 1 khu vực xấu. Nhưng đến năm 2007 mới coi Phong thủy thì đã qua Vận 8, nên lúc đó khu vực phía BẮC có số 7 là bị SUY KHÍ, nên đã biến thành xấu. Còn khu vực phía TÂY NAM có hướng tinh số 8, lúc này đã trở thành VƯỢNG KHÍ, nên là khu vực tốt nhất của căn nhà. Rồi Hướng tinh số 1 đang là TỬ KHÍ của vận 7 trở thành SINH KHÍ của vận 8, nên khu vực phía ĐÔNG NAM cũng đang từ xấu mà biến thành tốt.

Cho nên sự biến đổi của Sơn, Hướng tinh: từ Sinh-Vượng thành Suy-Tử, rồi từ Suy-Tử trở thành Sinh-Vượng là điều mà người học Huyền Không cần để ý, và nó cũng là 1 trong những yếu tố giúp cho việc giải đoán Phong thủy thêm phần linh hoạt và uyển chuyển, chính xác hơn.

Sau khi đã phân biệt Cửu khí thành SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ cho mỗi vận thì mới xét tới mức độ ảnh hưởng của chúng như sau:

– SINH KHÍ: có tác dụng tốt, tuy ảnh hưởng lâu dài và trong tương lai, nhưng cũng cần được phát huy.

– VƯỢNG KHÍ: có tác dụng tốt đẹp và mau chóng, nhất là trong lúc còn đương vận, cho nên cần được phát huy càng sớm càng tốt.

– SUY KHÍ: vì chỉ là khí suy nên tác dụng cũng chưa đến nổi xấu lắm [ngoại trừ các khí 2, 5, 7] cho nên tuy cần phải né tránh nhưng cũng không phải là tuyệt đối.

– TỬ KHÍ: là những khí xấu cần phải né tránh, nếu không sẽ có tai họa về nhân sự, sức khỏe hoặc tiền bạc.

Kế đó lại còn phải phân biệt những khí SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ đó là Sơn tinh hay Hướng tinh. Nếu là Sơn tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến nhân sự [số lượng người nhiều, ít, tài giỏi hay không…trong nhà]. Nếu là Hướng tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe và tài lộc của gia đình đó.

Trong “Thiên ngọc kinh Ngoại thiên” của Dương công Chẩm có viết: “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không chỉ có nghĩa là “núi”, mà còn là Sơn tinh của 1 trạch vận. Cũng như chữ “Thủy” không chỉ có ý nghĩa là “sông nước”, mà còn là Hướng tinh [do quan niệm phương tọa cần có núi, phía trước cần có thủy]. Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, còn Hướng tinh chủ về tài lộc.

Vì đã gọi là “Sơn”, nên Sơn tinh nếu muốn phát huy tác dụng [hay đắc cách] thì cần phải có núi cao [hay nhà hoặc cây cao…]. Vì đã gọi là “Thủy”, nên Hướng tinh nếu muốn phát huy tác dụng thì cần phải gặp nước [thủy]. Nhưng không phải Sơn tinh nào cũng cần phải gặp núi, mà chỉ có những Sơn tinh đang là khí Sinh, Vượng mà thôi. Chẳng hạn như trong vận 1 thì các Sơn tinh 1 [vượng khí], 2, 3 [sinh khí] đóng ở khu vực nào thì cần có núi hay nhà cao ở tại khu vực đó. Có như vậy thì gia đình đó nhân đinh đông đúc, lại chủ xuất hiện người tài giỏi, có danh, có tiếng. Ngược lại, những khu vực có những Sơn tinh là Suy khí hay Tử khí thì lại cần thấp, trống hay bằng phẳng. Nếu tại những khu vực đó mà có núi hay nhà cao… thì sẽ có tai họa về nhân đinh như hiếm người, con cái khó lấy chồng, lấy vợ, hoặc trong nhà xuất hiện cảnh chia ly, góa bụa, cô quả…

Đó chỉ là riêng đối với các trường hợp khí SINH, VƯỢNG, SUY, TỬ của Sơn tinh. Còn đối với các trường hợp của Hướng tinh cũng thế. Tuy rằng Hướng tinh cần có Thủy, nhưng chỉ những khu vực nào có Sinh khí hay Vượng khí của Hướng tinh mới cần có Thủy như sông, hồ, ao, biển hoặc buồng tắm, nhà vệ sinh, đường xá, cửa ra vào… Nếu được như thế thì tài lộc dồi dào, của cải sung túc, công việc làm ăn ổn định… Ngược lại, nếu những khu vực có Suy, Tử khí của Hướng tinh mà lại có “THỦY” thì nhà đó tài lộc túng thiếu, dễ bị hao tán tiền của, công ăn việc làm lụn bại…

Ví dụ 3: nhà hướng 30 độ, tức tọa MÙI hướng SỬU, vào ở trong vận 8.

Nếu lập Trạch vận thì sẽ thấy các Hướng tinh 8 [Vượng khí], 9, 1 [Sinh khí] ở các khu vực phía ĐÔNG BẮC, TÂY và TÂY BẮC. Cho nên những khu vực này [bên trong hay bên ngoài nhà] cần có thủy của sông hồ, ao biển, buồng tắm, cửa ra vào … Còn khu vực phía NAM có hướng tinh 7 [Suy khí] nên không nên có thủy, nếu có tất nhà sẽ dễ bị trộm cướp quấy phá. Những khu vực còn lại cũng toàn là Tử khí của Hướng tinh nên đều không nên có thủy hoặc cửa ra vào.

Kế đó lại xét tới những trường hợp của các Sơn tinh. Vì các Sơn tinh số 8 [Vượng khí], 9, 1 [Sinh khí] nằm tại các khu vực phía TÂY NAM, BẮC và NAM, nên nếu những khu vực này mà có núi hay nhà cao… thì nhà này sẽ đông con, nhiều cháu, con cái tài giỏi, nên người… Các khu vực còn lại thì chỉ toàn là Suy khí hay Tử khí của Sơn tinh, nên nếu có núi hay nhà cao tất sẽ làm phương hại tới nhân đinh của căn nhà này.

Sau khi đã biết và phân biệt được những yếu tố trên rồi mới có thề xét tới trường hợp cơ bản đầu tiên của Phong thủy Huyền Không là Vượng sơn, Vượng hướng. Như chúng ta đã biết, Phong thủy bắt đầu từ Hình tượng, rồi sau này mới phát triển lên tới Lý khí và Vận số. Mà Hình tượng phái [tức Loan đầu phái] thường chủ trương nhà cần có núi bao bọc, che chở nơi phía sau [Huyền Vũ], còn phía trước thì cần phải trống thoáng, có sông, hồ phản chiếu ánh sáng để tích tụ Long khí [Chu Tước], đồng thời có cửa ra vào để hấp thụ Long khí. Còn đối với Phong thủy Huyền không thì khi cất nhà phải chọn hướng như thế nào cho Vượng khí của Hướng tinh tới Hướng [tức phía trước], còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau. Phối hợp giữa Hình tượng với Lý khí [tức phi tinh] thì nhà này sẽ có Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, đắc Thủy của sông hồ, lại có lối ngõ, cửa nẻo vào nhà nên tài lộc đại vượng. Còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau gặp núi nên chủ vượng nhân đinh, con cháu đông đúc, nhân tài xuất hiện nên là cách cục “phúc lộc song toàn”. Cho nên Vượng Sơn, Vượng Hướng [còn gọi là ĐÁO SƠN, ĐÁO HƯỚNG, vì vượng khí của Sơn tinh tới tọa, vượng khí của Hướng tinh tới hướng] là cách cục cơ bản của Phong thủy và Huyền Không. Những nhà có cách cục như vậy còn được gọi là những nhà có “Châu bảo tuyến” [hướng nhà quý như châu báu]. Điểm quan trọng của những trường hợp này là giữa hình thế bên ngoài [Loan đầu] và phi tinh có sự tương phối thích hợp. Ngược lại, nếu 1 căn nhà phía trước cũng có sông hồ, phía sau cũng có núi cao. Nhưng do việc chọn hướng không thích hợp, hoặc do xây dựng không đúng lúc mà khi lập Trạch vận thì Vượng khí của Sơn tinh lại tới hướng [phía trước], còn vượng khí của Hướng tinh lại tới tọa [phía sau] thì tuy hình thế chung quanh của ngôi nhà là tốt, nhưng do không ứng hợp được với phi tinh nên lại chủ phá tài, tổn đinh, tan cửa nát nhà mà thôi. Đây còn gọi là cách cục “Thượng sơn, Hạ thủy” sẽ nói ở 1 phần khác.

Một điểm cần chú ý trong cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng” [hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”] này là tuy trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường coi những nhà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, còn vượng khí của Sơn tinh tới phía sau nhà là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”. Nhưng điều quan trọng là ngoại hình bên ngoài của căn nhà [Loan đầu] có phù hợp với vượng khí của Sơn và Hướng tinh hay không? Nếu phù hợp thì mới thật sự là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”, và nhà mới phát phúc, phát lộc. Còn nếu ngoại hình không phù hợp thì sẽ biến thành cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mà gây ra hung họa đầy dãy. Nhưng thế nào là phù hợp hay không phù hợp? Như chúng ta đã biết, Sơn tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có núi cao. Còn Hướng tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có Thủy như sông biển hoặc đường đi hay cửa nẻo ra vào nhà… Cho nên những nhà mà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước thì còn đòi hỏi khu vực phía trước của nhà đó phải trống, thoáng, có thủy hay đường đi, cửa ra vào… Còn vượng khí của Sơn tinh đến phía sau cũng đòi hỏi khu vực phía sau nhà có núi hay nhà cao… Có như thế mới được coi là thật sự đắc cách “Đáo Sơn, Đáo Hướng” mà đinh, tài đều vượng. Ngược lại, nếu như nhà đó có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, nhưng phía trước nhà lại có núi hay nhà cao, hoặc bị gò đất nhô lên, hay bị cây cối rậm rạp, um tùm che chắn… tức là vượng khí của Hướng tinh không gặp “Thủy” mà lại gặp “Sơn”. Còn vượng khí của Sơn tinh tuy tới phía sau, nhưng phía sau nhà lại không có núi hay nhà cao, mà lại có sông, hồ, ao, biển, hoặc cống rãnh…, tức là vượng khí của Sơn tinh không gặp “Sơn” mà lại gặp “Thủy”. Đó đều là những cách cục suy bại về tài lộc và nhân đinh. Cho nên mới nói giữa phi tinh và ngoại hình Loan đầu bên ngoài phải có sự phù hợp là như vậy. Nếu phù hợp thì mới thật sự là “vượng”, và mọi sự mới được tốt đẹp. Còn nếu như trái ngược [tức không phù hợp] thì dù có “vượng” cũng sẽ thành “suy” và phát sinh ra muôn vàn tai họa.

Thượng Sơn, Hạ Thủy

“Thanh nang Tự” viết: “Long thần trên núi không được xuống nước, Long thần dưới nước không được lên núi”. Đây là 1 nguyên lý trọng yếu của Huyền Không, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “then chốt của cát, hung, họa, phúc”.

Như chúng ta đã biết “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không những chỉ nói về “Núi”, mà còn dùng để ám chỉ những phi tinh của Sơn bàn [tức Sơn tinh]. Cũng như chữ “Thủy” ở đây không những chỉ nói về “Nước”, mà còn dùng để ám chỉ những phi tinh của Hướng bàn [tức Hướng tinh]. Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, Hướng tinh chủ về tài lộc. Chính vì thế nên khí sinh, vượng của Sơn tinh cần đóng tại những nơi có núi hay gò đất cao, hay những nơi có nhà cửa, cây cối cao lớn. Như thế là những cách cuộc Sơn tinh đắc cách, chủ người trong nhà tài giỏi, đông đúc, thành công sớm, tên tuổi vang dội… Còn khí sinh, vượng của Hướng tinh thì cần đóng tại những nơi có sông, hồ, ao, biển, đường rộng, ngã ba, ngã tư hay cửa ra vào… Đó là những cách cuộc Hướng tinh đắc “Thủy”, nên tài lộc của gia đình sẽ không bao giờ thiếu, công việc làm ăn ổn định…

Ngược lại, nếu những nơi có khí sinh, vượng của Sơn tinh lại không có núi hay nhà cao, cây cao, nhưng lại có Thủy của sông, hồ, ao, biển, hoặc là những vùng thấp, trũng… thì sẽ chủ gia đình ly tán, cô quả, tuyệt tự hoặc yểu chiết… Cho nên mới nói “Long thần trên núi không được xuống nước”. Chữ “Long thần trên núi” thực ra là để ám chỉ Sơn tinh. Sơn tinh nếu là khí sinh, vượng so với đương vận thì không thể đóng tại những nơi thấp, trũng hoặc có nước [hạ thủy], kẻo nếu không thì sẽ có tai họa cho nhân đinh.

Tương tự như thế, nếu những nơi có khí sinh, vượng của Hướng tinh lại không có Thủy của sông, hồ, ao, biển, đường đi hoặc cửa ra vào…, nhưng lại có núi hay nhà cao, cây cao thì sẽ chủ tài lộc khó khăn, công việc làm ăn lụn bại, gia cảnh lầm than, sa sút. Cho nên mới nói “Long thần dưới nước không được lên núi”. Chữ “Long thần dưới nước” là để ám chỉ Hướng tinh. Hướng tinh nếu là khí sinh, vượng so với đương vận thì không thể đóng tại những nơi cao ráo hoặc có núi đồi [thượng sơn], kẻo nếu không sẽ có tai họa về tiền bạc. Đây chính là cách cuộc “Thượng sơn, Hạ thủy” trong Huyền không học.

Thí dụ: nhà tọa Sửu hướng Mùi, nhập trạch trong vận 8. Nếu lập trạch vận thì sẽ thấy tinh bàn của căn nhà

Trước hết xét về Sơn tinh, ta thấy các khu vực TÂY, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC của căn nhà này có các số 9, 1, và 8, tức là những sinh, vượng khí của Sơn tinh [so với đương vận, tức vận 8]. Nếu những khu vực này chỉ toàn là sông, hồ, hoặc đường đi, chứ không có núi hay nhà cao thì nhà này đã phạm cuộc “Hạ thủy”, chủ nhân đinh suy bại. Sau đó, lại xét về Hướng tinh, ta thấy các khu vực phía BẮC, NAM và TÂY NAM có các số 9, 1 và 8, tức là những sinh, vượng khí của Hướng tinh trong vận 8. Nếu những khu vực này không có Thủy, mà lại có núi đồi hay nhà cao, cây cao, thì căn nhà này còn phạm thêm cuộc “Thượng sơn”, chủ suy bại cả về tài lộc nữa.

Cũng tương tự như những trường hợp “vượng Sơn, vượng Hướng” [hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”] là trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường cho những nhà có vượng tinh của Hướng đến tọa, vượng tinh của Sơn đến hướng là thuộc cách cuộc “Thượng sơn, Hạ thủy”, và gọi những nhà lập trạch vận theo những hướng đó là những nhà có “Hỏa Khanh tuyến” [tức hướng xấu hay bần tiện]. Nhưng trên thực tế thì còn phải tùy thuộc vào bối cảnh Loan đầu bên ngoài của căn nhà đó như thế nào rồi mới có thể kết luận là nhà đó có bị “Thượng sơn, Hạ thủy” hay không được.

Chủ Đề