[Last Updated On: 01/02/2022 by Lytuong.net]
Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác?
Điều kiện kinh tế – xã hội
Triết học Mác cũng như các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản thế giới hình thành và phát triển như một lực lượng chính trị độc lập, một giai cấp cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện những mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất công nghiệp với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là một quy luật mang tính tất yếu khách quan của chủ nghĩa tư bản. Trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản được thể hiện qua những giai đoạn và các hình thức cụ thể khác nhau. Nhưng cuộc đấu tranh đó có nhu cầu tất yếu khách quan về mặt hệ tư tưởng, về mặt tổ chức chính trị xã hội của giai cấp vô sản [Đảng cộng sản], v.v.. Sự ra đời chủ nghĩa Mác có khả năng đáp ứng những nhu cầu khách quan đó. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới vào những thập niên 30 – 40 của thế kỷ XIX như Ăngghen đã nhận xét, nó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong quan niệm của Mác về lịch sử.
Nghiên cứu quá trình đấu tranh xã hội trong lịch sử và khái quát những kinh nghiệm trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới ở Anh, Pháp, Đức, v.v… Mác và Ăngghen đã khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến và cách mạng nhất, giai cấp có khả năng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản xây dựng một xã hội mới, xã hội cộng sản. Sự ra đời của triết học Mác cũng như chủ nghĩa Mác, là một nhu cầu khách quan, phản ánh đúng những điều kiện khách quan và có khả năng giải quyết những nhiệm vụ khách quan của thời đại. Trước hết nó phản ánh nhu cầu khách quan về mặt hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển tất yếu của xã hội.
Nguồn gốc lý luận
Sự xuất hiện triết học Mác là sự kế thừa mang tính phê phán với toàn bộ lịch sử tư tưởng của nhân loại trước đó. Nhưng về cơ bản là sự tiếp thu mang tính phê phán đối với với triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp, v.v…
Đối với triết học cổ điển Đức, trước hết là sự ảnh hưởng của Hêghen, ông đã phê phán mạnh mẽ phương pháp tư duy siêu hình, đồng thời là người đầu tiên diễn đạt những quy luật của phép biện chứng. Tuy nhiên toàn bộ triết học của Hêghen lại thừa nhận vai trò quyết định của “ý niệm tuyệt đối”, nên triết học của ông là triết học duy tâm khách quan và chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn. Mác và Ăngghen đã tiếp thu một cách có phê phán những tư tưởng khoa học trong phép biện chứng của Hêghen và từ đó xây dựng những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật, với tính cách là hình thức cao nhất của phép biện chứng.
Phoiơbách cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác – Ăngghen. Sự ảnh hưởng đó trước hết là những quan niệm duy vật về tự nhiên và sự phê phán tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm huyền bí của Hêghen. Nhưng Mác và Ăngghen cũng thấy được những thiếu sót hạn chế của chủ nghĩa duy vật Phoiơbách về vấn đề tôn giáo, và ngay cả sự phê phán của Phoiơbách đối với Hêghen. Khi Phoiơbách không thấy được cái hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen, v.v…
Đối với các học thuyết kinh tế chính trị của Anh cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển của triết học Mác nhất là những tư tưởng về kinh tế chính trị -xã hội. Đó là những học thuyết về kinh tế chính trị của A. Đ. Ximít, Đ.Ricácđô, v.v… Nghiên cứu quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân thế giới, Mác – Ăngghen đã nghiên cứu một cách toàn diện các quan hệ xã hội và nhất là những quan hệ vật chất, kinh tế chính trị của xã hội của chủ nghĩa tư bản.
Đối với chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp là các tư tưởng của Xanhximông, Phuriê, v.v… tuy đã vạch ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa tư bản và lao động, v.v… nhưng họ lại không thấy được quy luật phát triển của xã hội và vai trò của giai cấp công nhân trong sự phát triển của xã hội. Nhưng dẫu sao những tư tưởng nhân đạo và giải phóng con người giải phóng xã hội của chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học của Mác – Ăngghen về lịch sử về giai cấp công nhân, v.v…
Tiền đề khoa học tự nhiên
Từ những thập niên 30 – 40 thế kỷ XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên và các thành tựu của nó, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại những quan điểm siêu hình, duy tâm trong triết học; đồng thời nó tạo ra những tiền đề khách quan cho sự xuất hiện triết học Mác. Quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, chứng minh rằng cơ học, nhiệt ánh sáng, điện, từ các dạng trong các hình thức vận động khác nhau của vật chất không tách rời nhau, có khả năng chuyển hóa cho nhau. Không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng mà chỉ có sự chuyển hóa lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác.
Sự phát triển của khoa học sinh học gắn liền với với sự xuất hiện học thuyết tế bào, đã chống lại những quan niệm duy tâm siêu hình về nguồn gốc, về mối quan hệ giữa hình thái thực vật – động vật. Nó xác định được mối liên hệ biện chứng về nguồn gốc lịch sử và các quy luật phát triển của sinh học. Sự xuất hiện học thuyết Đácuyn đã xác định sự tiến hóa của sinh học. Thuyết tiến hóa của Đácuyn đã bác bỏ quan niệm duy tâm, siêu hình về sự bất biến trong sinh học, và ông cũng là người đầu tiên xác định tính biến dị, di truyền giữa các loài, v.v…
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên giữa thế kỷ XIX đã nêu được mối liên hệ biện chứng, sự biến đổi chuyển hóa về mặt chất lượng trong các lĩnh vực khác nhau của giới tự nhiên. Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên Mác – Ăngghen đã phát triển và cụ thể hóa những vấn đề triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Triết học của C.Mác
[1818 – 1883] và Ph.Ăngghen [1820 – 1895] là sự kế thừa những thành tựu vĩ đại
của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX.
Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học Mác nói riêng là một quá trình, quá
trình này có thể được chia thành hai giai đoạn cơ bản sau:
• Giai
đoạn [1841 – 1844]: là giai đoạn hình thành dần dần các quan điểm triết học, sự
chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
• Giai
đoạn [1844 – 1848]: Khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình này hoàn thành vào năm 1848 với sự
xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
• Giai
đoạn [1848 – 1895]: Mác và Ăngghen bổ sung phát triển và hoàn thiện hệ thống,
quan điểm triết học mác-xít. Giai đoạn
này được chia thành ba thời kỳ:
- Thời
kỳ thứ nhất, Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển triết học thông qua tổng kết
kinh nghiệm cách mạng tư sản [tháng 2/1848].
- Thời
kỳ thứ hai, Mác và Ăngghen nghiên cứu các vấn đề kinh tế, viết bộ Tư bản từ những
năm 40 và xuất bản năm 1867.
- Thời
kỳ thứ ba, Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển và hoàn thiện triết học và chủ
nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác trở thành hệ tư tưởng thống trị trong phong
trào công nhân.
Triết học
Mác ra đời trong những điều kiện lịch sử giữa thế kỷ XIX. Nó là kết quả của sự
phát triển lịch sử tư tưởng triết học và sự phát triển của khoa học nói chung,
trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra mạnh mẽ ở thời kỳ
đó.
1. Điều
kiện kinh tế - xã hội
Vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định được vị thế của mình và
đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học
Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:
• Thứ
nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn
tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự phát triển của
kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.
• Thứ
hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn,
lý luận, chính trị, xã hội... đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa
là nó kích thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học
Mác.
• Thứ
ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp công nhân
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu tranh kinh
tế sang đấu tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở
Liông [Pháp – 1831], khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi [Đức – 1844], Phong trào
Hiến chương ở Anh [Từ năm 1836 đến năm 1847]. Cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân đòi hỏi phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có
rất nhiều các trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào
công nhân. Điều này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự
xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử cùng với cuộc đấu tranh mạnh
mẽ của họ là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
2. Tiền
đề về khoa học tự nhiên
Bước sang
đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã chuyển từ
trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát minh
khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học Mác:
• Định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov
[8/11/1711 – 4/4/1765] và Antoine Lavoisier [26/8/1743 – 8/5/1794].
• Thuyết
tế bào của Theodor Schwann [sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức; mất ngày
11/1/1882, Köln, Đức] và Matthias Schleiden [1804-1881]. Chứng minh sự thống nhất
về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.
• Học
thuyết tiến hóa của Charles Darwin [12/2/1809 – 19/4/1882] là học thuyết cho rằng
sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là chọn lọc tự
nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh vật với
giới tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên.
Bác bỏ quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.
Ý nghĩa của
các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác:
Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau,
các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch
ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
3. Tiền
đề lý luận
• Kinh
tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của
A.X-mít [1723-1790] và Đ.Ri-các-đô [1772 – 1823]. Hai ông đã có những đóng góp
quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị.
Tuy nhiên, hai ông chưa chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác –
Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã chỉ ra
được nguồn gốc của giá trị thăng dư – một cơ sở khoa học để phân tích, giải
thích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa,
làm cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.
• Chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
[1760 - 1825] và Sáclơ Phuriê [1772 –1837]. Hai ông đã có nhiều đóng góp cho lý
luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được hai điểm quan trọng:
- Một
là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;
- Hai
là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.
Tuy
nhiên, hai ông cũng còn nhiều hạn chế, nhưng hạn chế cơ bản nhất là tính không
tưởng trong lý luận của các ông. Mác – Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những giá trị
tích cực, khắc phục tính không tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng kết
thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con đường
cách mạng vô sản và thay thế nó bằng nhà nước vô sản kiểu mới.
• Triết
học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen
[1770-1831] và Phoiơbắc [1804-1872], là nguồn gốc lý luận trực tiếp.
- Với
triết học Hêghen thì giá trị hạt nhân hợp lý là phép biện chứng, nhưng hạn chế
lớn nhất ở Hêghen là thế giới quan duy tâm khách quan.
- Với
Phoiơbắc, giá trị lớn nhất trong tư tưởng của ông là thế giới quan duy vật nhân
bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của ông là tính chưa triệt để, máy móc, siêu hình.
Mác –
Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc phục tính chất duy
tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật. Đồng thời Mác –
Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu
hình, máy móc, tính không triệt để của nó và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng
phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác – Ănghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
4. Nhân
tố chủ quan
• Ngoài
những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự
ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu
nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của
các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa
học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại, tổng
kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận của
giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
• Cùng
với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người
hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại:
Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự
ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.
Nguồn: Giáo trình