Diffusion of Innovation la gì

Với tư cách cá nhân, cách bạn chấp nhận sự đổi mới sẽ ảnh hưởng trực tiếp cách bạn tạo ra & phát tán sản phẩm đổi mới của mình. Đây được gọi là Individual adoption (tạm dịch: Sự chấp nhận mang tính cá nhân)

Nhà lý luận & xã hội học Everett Roger đã đưa ra “Thuyết Khuếch Tán Đổi Mới” (Diffusion of Innovation), theo ông mỗi cá nhân đều sẽ trải qua 5 bước để chấp nhận một sản phẩm mới:

① Kiến thức (Knowledge): Cá nhân ý thức được sự tồn tại của ý tưởng đổi mới & những gì cần nó đáp ứng.

② Thuyết phục (Persuasion): Mức độ mỗi cá nhân phát triển thái độ tích cực hoặc tiêu cực đối với sự đổi mới & cách ĐMST đáp ứng nhu cầu của họ.

③ Quyết định (Decision): Quyết định của cá nhân rằng họ sẽ nắm lấy sự đổi mới hay từ chối nó.

④ Thực hiện (Implementation): Cá nhân bắt đầu sử dụng đổi mới để đáp ứng nhu cầu.

⑤ Xác nhận (Confirmation): Bước cuối cùng để cá nhân quyết định họ có hài lòng với sự đổi mới hay không là khi họ tiếp tục sử dụng nó cũng như giới thiệu nó cho người khác.

Bạn thấy đấy, quá trình này sẽ diễn ra ở mỗi cá nhân — từng người một.

Thế nhưng, những đổi mới không được tất cả cá nhân trong một hệ thống chấp nhận cùng lúc. Thay vào đó, họ có xu hướng chấp nhận theo trình tự thời gian.

Dựa vào đó, Roger chia người tiêu dùng thành 5 loại người tương ứng với trình tự thời gian họ chấp nhận sự đổi mới. Nó được thể hiện theo đường cong S:

Diffusion of Innovation la gì
Hình 4.3. Đường cong khuyếch tán hình chữ S

Tuy vậy, căn cứ vào thời điểm áp dụng các mô hình cải tiến hay đổi mới, họ có thể được phân thành người đổi mới (số lượng rất ít), một nhóm nhỏ người áp dụng ngay ban đầu, nhóm tương đối lớn áp dụng sớm, nhóm tương đối lớn áp dụng muộn và nhóm nhỏ người áp dụng muộn. Tỉ lệ số người áp dụng một mô hình đổi mới cũng phụ thuộc vào đặc điểm cấu trúc xã hội của cộng đồng đó. Ví dụ như có hay không sự hiện diện của các lãnh đạo tinh thần (những người mà quan điểm của họ được đánh giá cao) và các cá nhân có ảnh hưởng lớn đến hành vi của những người khác.

Ở cấp độ vi mô (cấp độ cá nhân), Rogers (1995) chỉ ra rằng quá trình áp dụng một mô hình đổi mới ở một cá nhân trải qua năm giai đoạn: (1) tìm hiểu: mỗi cá nhân tìm hiểu thông tin về mô hình mới thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hoặc các kênh giao tiếp cá nhân, (2) thuyết phục: họ bị thuyết phục bởi những tiện lợi hoặc bất lợi của mô hình, (3) quyết định: quyết định áp dụng hoặc từ chối áp dụng mô hình, (4) thực hiện: bước đầu thử nghiệm mô hình, và (5) xác nhận: quyết định có hay không áp dụng mô hình ở mức độ tối đa (Xem Hình 4.4). Có năm yếu tố ảnh hưởng đến các quyết định này của chủ thể áp dụng: (1) mức độ tiện lợi: những tiện lợi của mô hình mới so với các mô hình trước đó, (2) khả năng tương thích: mức độ phù hợp với thói quen, sở trường, quan niệm của người áp dụng, (3) độ phức tạp: mô hình có dễ dàng để hiểu và thực hiện hay không, (4) tính thử nghiệm: mô hình có thể được áp dụng thử nghiệm mức độ nào, và (3) khả năng kiểm nghiệm: các kết quả của việc áp dụng mô hình đổi mới được cảm nhận rõ ràng đến mức độ nào. Hai yếu tố cuối cùng mà Rogers đề xuất đã bị lược bỏ trong các nghiêm cứu sau đó về đổi mới. Trong số năm yếu tố này, độ phức tạp sẽ kìm hãm việc áp dụng các mô hình đổi mới, trong khi đó bốn yếu tố còn lại thúc đẩy việc áp dụng này.

Diffusion of Innovation la gì
Hình 4.4. Quá trình áp dụng đổi mới

Ngoài ra, việc áp dụng đổi mới cũng phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân, ví dụ như tính ưa mạo hiểm, trình độ học vấn, sự cởi mở và thói quen giao tiếp. Người áp dụng sự đổi mới ngay lúc ban đầu thường là những người ưu mạo hiểm, có học vấn và tìm hiểu phần lớn thông tin về mô hình đổi mới trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong khi đó, những người áp dụng mô hình muộn hơn thường dựa trên các quan hệ cá nhân như người thân hoặc bạn bè để tìm hiểu những thông tin quan trọng về mô hình đổi mới. Bên cạnh những thàng công, IDT đã gặp phải những chỉ trích về sự thiên vị dành cho xu hướng đổi mới, bởi vì nó giả định rằng tất cả sự đổi mới là có lợi và đến một thời điểm nào đó chúng sẽ trở nên thịnh hành trong cộng đồng. Ngoài ra, lý thuyết này bị chỉ trích vì nó cũng làm chậm quá trình loại bỏ những cải tiến hay các mô hình đổi mới không phù hợp với cộng đồng để thay thế bằng những mô hình phù hợp hơn, thiết thực hơn.