Dự án PPP của nhà đầu tư trong nước không cần thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

Đầu tư theo hình thức đối tác công tư

Đầu tư theo hình thức đối tác công tư được viết tắt là PPP, đây là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng dự án giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng, cung cấp dịch vụ công. Để hiểu rõ hơn về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, Quý bạn đọc có thể tham khảo bài viết dưới đây của Phamlaw.

CĂN CỨ PHÁP LÝ

Luật đầu tư 2020

Nghị định số 35/2021/NĐ-CP

NỘI DUNG TƯ VẤN

1. Dự án PPP là gì?

Dự án PPP là các dự án về đầu tư, xây dựng, cải tạo, kinh doanh, vận hành, cung cấp dịch vụ công, quản lý công trình hạ tầng,… dựa trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết trước đó. Dự án PPP được ra đời và nhằm để thể hiện sự hợp tác của Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân trong mối quan hệ kinh tế.

Nhà đầu tư khi tham gia dự án PPP sẽ được Nhà nước chuyển giao quyền lợi và trách nhiệm theo các mức độ khác nhau. Ngoài ra, tùy vào độ lớn của dự án mà hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng dành cho các khối tư nhân cũng khác nhau.

Hơn nữa, nguồn vốn của dự án PPP tập trung chủ yếu từ phía các doanh nghiệp tư nhân. Còn Nhà nước chỉ tham gia đóng góp một phần không vượt quá 30% tổng nguồn vốn của dự án, loại trừ trường hợp Thủ tướng Chính Phủ ban hành quyết định riêng.

Như vậy, ta có thể hiểu các dự án PPP là các dự án xây dựng, vận hành, cải tạo, quản lý công trình hạ tầng cung cấp dịch vụ công. Đây là mô hình đang được áp dụng rất rộng rãi. Mối quan hệ hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong các dự án PPP là mối quan hệ kinh tế gắn bó chặt chẽ, mối quan hệ hợp tác công tư nhằm hoàn thiện 1 dự án đầu tư. Các nhà đầu tư có hứng thú với dự án sẽ tham gia đấu thầu, doanh nghiệp trúng thầu sẽ được nhà nước tiến hành chuyển giao quyền lợi, trách nghiệm theo các mức độ nhất định.

2. Đặc điểm của hình thức đầu tư PPP

Đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP có các đặc điểm sau:

Thứ nhất, Chủ thể tham gia hợp đồng PPP gồm cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp tư nhân.

Theo đó, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân cùng phối hợp với Nhà nước thực hiện các dự án trên cơ sở Hợp đồng dự án.

Thứ hai, Lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư, Điều 2 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP quy định, lĩnh vực đầu tư theo phương thức PPP bao gồm:

+ Giao thông vận tải gồm các dự án có tổng mức đầu tư từ 1.500 tỷ đồng trở lên trong lĩnh vực đường bộ; đường sắt; đường thủy nội địa; hàng hải; hàng không.

+ Lưới điện, nhà máy điện, trừ nhà máy thủy điện và các trường hợp Nhà nước độc quyền theo quy định

+ Thủy lợi; cung cấp nước sạch; thoát nước và xử lý nước thải; xử lý chất thải: Quy mô dự án có tổng mức đầu tư từ 200 tỷ đồng trở lên

+ Y tế; giáo dục – đào tạo với các dự án cơ sở khám chữa bệnh; y tế dự phòng; kiểm nghiệm có tổng mức đầu tư từ 100 tỷ đồng trở lên;

+ Hạ tầng công nghệ thông tin

Cụ thể là dự án hạ tầng thông tin số, kinh tế số; hiện đại hóa công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng và Nhà nước; ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, trung tâm dữ liệu; các nền tảng, ứng dụng, dịch vụ quốc gia dùng chung; an toàn, an ninh mạng; hệ thống ứng dụng, dịch vụ phục vụ người dân và doanh nghiệp; hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông [ICT] cho đô thị thông minh có tổng mức đầu tư từ 200 tỷ đồng trở lên.

Thứ ba, Mỗi dự án PPP sẽ có một loại hợp đồng tương ứng phù hợp với đặc điểm và yêu cầu cụ thể của từng loại hình như:

+ Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao [Build – Operate – Transfer, hợp đồng BOT];

+ Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh [Build – Transfer – Operate, hợp đồng BTO];

+ Hợp đồng Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh [Build – Own – Operate, hợp đồng BOO];

+ Hợp đồng Kinh doanh – Quản lý [Operate – Manage, hợp đồng O&M];

+ Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Thuê dịch vụ [Build – Transfer – Lease, hợp đồng BTL]…

3. Một số lĩnh vực áp dụng đầu tư theo hình thức PPP

Hiện nay, PPP được áp dụng đầu tư tại các lĩnh vực như: Giao thông – đường bộ; Hầm đường bộ, đường bộ, cầu đường bộ và bến phà đường bộ; Cảng biển, cảng hàng không và cảng sông; Cung cấp nước sạch; Nhà máy điện; Hệ thống xử lý nước thải bảo vệ môi trường; Bệnh viện; Phát triển kết cấu cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công; Đường sắt, hầm đường sắt,…

4.Quy trình thực hiện dự án đầu tư

Quy trình thực hiện dự án đầu tư PPP bao gồm các bước sau đây:

Bước 1: Đề xuất dự án đầu tư.

Các cơ quan bộ ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc thành phố trực thuộc, hay nhà đầu tư là những người có thể đề xuất dự án đầu tư.

Bước 2: Thẩm định và phê duyệt.

Dựa vào các tiêu chí và trình tự thẩm định phê duyệt đã được quy định chi tiết trong điều luật, cơ quan nhà nước sẽ lựa chọn sơ bộ dự án, bao cao tính khả thi của dự án. Thời gian này không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.

Bước 3: Công bố dự án.

Việc công bố dự án diễn ra trong vòng 7 ngày kể từ khi dự án được phê duyệt và công bố trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.

Bước 4: Lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi.

Ở những dự án do các bộ, ngành ủy ban nhân dân đề xuất thì những cơ quan này sẽ lập báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án. Quá trình thẩm định cho các cơ quan thuộc Hội đồng thẩm định nhà nước, các đơn vị đầu mối về PPP do Bộ trưởng, thủ tướng, cơ quan ngang bộ hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Khi dự án đã được chủ thể thực hiện và chủ thể thẩm định thì lúc này sẽ được thủ tướng chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng đơn vị hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.

Bước 5: Lựa chọn nhà đầu tư, ký kết hợp đồng.

Các hình thức lựa chọn nhà đầu tư có thể là đấu thầu rộng rãi hoặc chỉ định thầu. Trong bước này sẽ thực hiện ký kết hợp đồng thỏa thuận đầu tư và hợp đồng dự án sửa nhà nước và nhà đầu tư được lựa chọn.

Bước 6: Đăng ký đầu tư và thành lập doanh nghiệp.

Sau khi đã được lựa chọn thành nhà đầu tư, nhà đầu tư sẽ phải làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thành lập doanh nghiệp dự án nhằm mục đích thực hiện và quản lý thực hiện dự án theo pháp luật.

Bước 7: Triển khai thực hiện dự án.

Quá trình triển khai dự án sẽ được thực hiện dựa trên những định hướng của nhà nước là sự kết hợp nguồn vốn của nhà đầu tư để tiến hành hoàn thành dự án.

Bước 8: Quyết toán và bàn giao dự án.

Pháp luật quy định rằng trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày hoàn thành công trình dự án, các chủ thể là nhà đầu tư thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình. Việc kiểm toán giá trị vốn đầu tư được thực hiện bởi một tổ chức kiểm toán độc lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư thỏa thuận lựa chọn.

Đối với các hợp đồng dự án có quy định về việc chuyển giao công trình dự án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư thỏa thuận trong hợp đồng dự án các điều kiện, thủ tục chuyển giao.

5. Ưu và nhược điểm của hình thức đầu tư PPP

* Ưu điểm của hình thức đầu tư PPP:

– Thúc đẩy hiệu quả của quá trình phân phối, quản trị và quản lý các dự án.

– Đảm bảo đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.

– Có khả năng tiếp cận với công nghệ mới nhất [bao gồm cả phần mềm và phần cứng] và dễ dàng nắm bắt chúng.

– Giảm thiểu gánh nặng chi phí về thiết kế và xây dựng bởi mô hình PPP có thể sẽ không yêu cầu chi tiền mặt ngay lập tức.

* Hạn chế của hình thức đầu tư PPP:

– Rủi ro cao do khả năng của một trong các bên tham gia dự án không đáp ứng vì hạn chế kỹ thuật hoặc trình độ năng lực không đủ.

– Dự án PPP có thể cao hơn so với dự án bình thường, trừ khi chi phí bổ sung được bù đắp bằng hiệu quả tăng trưởng của dự án.

– Các thay đổi liên quan đến quản lý, kiểm soát tài sản cơ sở hạ tầng có thể không đủ để cải thiện hiệu quả kinh tế của nó, ngoại trừ khả năng các điều kiện cần thiết khác được đáp ứng. Những điều kiện đó sẽ bao gồm: quản lý cơ sở hạ tầng, cải cách hành chính hay các hoạt động liên quan đến môi trường.

– Hiệu quả quản lý kém, không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bên sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự thành công của dự án.

– Các bộ tham gia dự án không được đào tạo bài bản cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm về PPP.

– Nguồn vốn đầu tư công hạn chế dẫn đến nhiều khó khăn trong việc phân bổ nguồn vốn vào các dự án.

Trên đây là nội dung tư vấn của Phamlaw về đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Nếu bạn còn vướng mắc hoặc muốn được hỗ trợ tư vấn, vui lòng kết nối đến tổng đài tư vấn của chúng tôi. Hỗ trợ dịch vụ qua các đầu số hotline 097 393 8866 hoặc 091 611 0508.

Theo báo cáo của Văn phòng Hợp tác công tư [Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư] thì xếp hạng chất lượng cơ sở hạ tầng của Việt Nam so với các nước trên thế giới thì nước ta đứng thứ 90 [đứng sau Indonesia - 76, Thái Lan – 42, Malaysia – 26,…]. Xét về nhu cầu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng ở Việt Nam thì hàng năm cần có 40 tỷ USD nhưng nguồn vốn khả dụng hàng năm chỉ ở mức là 08 tỷ USD nên việc thiếu hụt về nguồn vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay rất lớn.

Trong tình hình nhu cầu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam nói chung và mỗi địa phương nói riêng là rất lớn, trong khi đó ngân sách nhà nước thì có hạn, vốn của các nhà tài trợ ngày càng thu hẹp, mô hình đầu tư theo hình thức hợp tác công tư [PPP] như một công cụ để huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cả trong và ngoài nước cho đầu tư cơ sở hạ tầng trong tình hình hiện nay.

1. Mô hình PPP là gì?

PPP [Public - Private Partnership]: Đầu tư theo hình thức đối tác công tư [sau đây gọi tắt là PPP] là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công.

Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây là hình thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, nó sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân.

Trong mô hình PPP, việc xác lập quan hệ đối tác thông thường là qua một hợp đồng ràng buộc về mặt pháp lý hoặc một số cơ chế khác, trong đó đồng ý chia sẻ các trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện và quản lý của các dự án cơ sở hạ tầng. Quan hệ đối tác được xây dựng trên chuyên môn của từng đối tác đáp ứng nhu cầu được xác định rõ ràng thông qua việc phân bổ thích hợp về: tài nguyên, nguồn lực; rủi ro; trách nhiệm; chế độ khen thưởng.

2. Những lợi thế của mô hình PPP                       

- Các nước trên thế giới ngày càng có khuynh hướng chuyển dần sang khu vực tư nhân để cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực năng lượng và điện, nước,  thông tin liên lạc, giao thông vận tải. Có nhiều lý do cho sự hợp tác với khu vực tư nhân trong phát triển và cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng, đó là:

+ Tăng cường hiệu quả trong việc phân phối, điều hành và quản lý dự án về hạ tầng.

+ Có các nguồn lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

+ Có cơ hội tiếp cận và nắm bắt các công nghệ tiên tiến [cả phần cứng và phần mềm].

- Công tác quy hoạch và phát triển được triển khai đúng đắn cho phép sàng lọc, lựa chọn tốt hơn các đối tác, và hỗ trợ trong việc ra quyết định về cơ cấu của dự án, cũng như đưa ra lựa chọn thích hợp về công nghệ trên cơ sở xem xét chi phí trong toàn bộ vòng đời của dự án.

- Mô hình PPP trở nên hấp dẫn với chính phủ các nước đang phát triển vì nó được đánh giá như là một cơ chế ngoài ngân sách phục vụ cho phát triển cơ sở hạ tầng như:

+ Giúp tăng cường cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cần thiết.

+ Áp dụng mô hình PPP có thể không yêu cầu bất kỳ chi tiêu tiền mặt ngay lập tức qua đó giúp làm giảm gánh nặng của chi phí thiết kế và xây dựng.

+ Cho phép chuyển nhượng nhiều rủi ro dự án sang khu vực tư nhân.

+ Mô hình PPP giúp đưa ra những lựa chọn tốt hơn về thiết kế, công nghệ, xây dựng, sự vận hành và chất lượng cung cấp dịch vụ hạ tầng.

3. Các hình thức thực hiện mô hình PPP

Hiện nay trên thế giới có 05 hình thức phổ biến như sau:

a] Mô hình nhượng quyền khai thác [Franchise] là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao [thường là thông qua đấu giá] cho tư nhân vận hành và khai thác.

b] Mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành DBFO [Design- Build - Finance - Operate], khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài trợ và vận hành công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.

c] Mô hình xây dựng - vận hành - chuyển giao BOT [Build - Operate - Transfer] là hình thức do công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ cho nhà nước.
      d] Mô hình BTO [xây dựng - chuyển giao - vận hành] là mô hình sau khi xây dựng xong thì chuyển giao ngay cho nhà nước sỏ hữu nhưng công ty thực hiện dự án vẫn giữ quyền khai thác công trình.

đ] Mô hình xây dựng - sở hữu - vận hành BOO [Build - Own - Operate] là hình thức công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công trình, sở hữu và vận hành công trình. 

4. Mô hình PPP tại Việt Nam

Ngày 14/02/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư [Trước đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 quy định thực hiện thí điểm theo hình thức đối tác công tư, Chính phủ đã ban hành Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao,…]

Theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP, các hình thức hợp đồng đối tác công tư gồm:

a] Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao [sau đây gọi tắt là hợp đồng BOT] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

b] Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh [sau đây gọi tắt là hợp đồng BTO] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.

c] Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao [sau đây gọi tắt là hợp đồng BT] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện Dự án khác theo các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 14 và Khoản 3 Điều 43 Nghị định này.

d] Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh [sau đây gọi tắt là hợp đồng BOO] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư sở hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.

đ] Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Thuê dịch vụ [sau đây gọi tắt là hợp đồng BTL] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định này.

e] Hợp đồng Xây dựng - Thuê dịch vụ - Chuyển giao [sau đây gọi tắt là hợp đồng BLT] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định này; hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

g] Hợp đồng Kinh doanh - Quản lý [sau đây gọi tắt là hợp đồng O&M] là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.

5. Các lĩnh vực đầu tư theo NĐ 15/2015/NĐ-CP

Dự án xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình kết cấu hạ tầng, cung cấp trang thiết bị hoặc dịch vụ công gồm:

a] Công trình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và các dịch vụ có liên quan;

b] Hệ thống chiếu sáng; hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước; hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải; nhà ở xã hội; nhà ở tái định cư; nghĩa trang;

c] Nhà máy điện, đường dây tải điện;

d] Công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao và các dịch vụ liên quan; trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;

đ] Công trình kết cấu hạ tầng thương mại, khoa học và công nghệ, khí tượng thủy văn, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung; ứng dụng công nghệ thông tin;

e] Công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát triển liên kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;

g] Các lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

6. Điều kiện lựa chọn dự án theo NĐ 15/2015/NĐ-CP

1. Dự án được lựa chọn thực hiện theo hình thức đối tác công tư phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

a] Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;

b] Phù hợp với lĩnh vực đầu tư quy định tại Điều 4 Nghị định này;

c] Có khả năng thu hút và tiếp nhận nguồn vốn thương mại, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư;

d] Có khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ liên tục, ổn định, đạt chất lượng đáp ứng nhu cầu của người sử dụng;

đ] Có tổng vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên, trừ dự án đầu tư theo hợp đồng O&M và dự án quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 4 Nghị định này.

2. Dự án chưa có trong quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, vùng, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương phải được Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

3. Dự án đáp ứng các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này có khả năng thu hồi vốn từ hoạt động kinh doanh được ưu tiên lựa chọn.

7. Thực trạng áp dụng mô hình PPP tại Việt Nam

Vài năm trở lại đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng [CSHT]. Bên cạnh huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, Việt Nam đã tích cực huy động vốn từ các thành phần ngoài nhà nước, các doanh nghiệp thực hiện các dự án CSHT theo hình thức PPP. Tính đến cuối năm 2016, tại Việt Nam đã có 19 dự án điện với công suất thiết kế khoảng 20.000 MW, 58 dự án trong lĩnh vực giao thông với tổng chiều dài là 1.700km đường bộ… đã triển khai thực hiện theo hình thức PPP.

Mặc dù Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư được xem là yếu tố then chốt để đẩy mạnh việc thu hút đầu tư tư nhân, cơ bản đáp ứng nguyên tắc thị trường, nhưng việc triển khai các dự án PPP vẫn rất hạn chế. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng dự án PPP mới đã lựa chọn được nhà đầu tư và đi vào vận hành hơn 1 năm qua là vô cùng ít ỏi. Các dự án PPP thuộc các bộ, ngành phần lớn thực hiện theo loại hợp đồng BOT, tại địa phương thì phổ biến với hình thức hợp đồng BT. Còn các dự án theo hình thức hợp đồng mới BTL, BLT [Nhà nước thanh toán cho nhà đầu tư dựa trên chất lượng dịch vụ] hoặc O&M vẫn chưa được quan tâm triển khai. Những dự án mới được thực hiện theo Nghị định 15 chủ yếu đang trong giai đoạn chuẩn bị dự án - lập đề xuất dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc lựa chọn nhà đầu tư.

8. Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư theo PPP ở nước ta

- Hành lang pháp lý chưa đầy đủ, ổn định: các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hình thức đầu tư PPP hiện chỉ dừng lại ở mức nghị định của Chính phủ nên hành lang pháp lý về hoạt động này vẫn còn phụ thuộc vào các luật như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công,... từ bước chuẩn bị đến triển khai đầu tư, vận hành và khai thác dự án. Trong khi đó, những văn bản này chủ yếu được xây dựng để điều chỉnh hoạt động đầu tư dự án công.

- Bộ máy đầu mối, nhân sự thực hiện PPP tại các bộ, ngành, địa phương chưa được rõ ràng, chủ yếu là kiêm nhiệm và năng lực chưa đáp ứng yêu cầu;

- Tiến độ thực hiện dự án kéo dài: Các dự án theo hình thức PPP thường có quy mô lớn, quá trình xúc tiến và nghiên cứu cũng như hồ sơ trình duyệt phải qua nhiều bước; trong khi quy định và thủ tục đầu tư từng bước lại yêu cầu phải xin ý kiến nhiều cơ quan, đơn vị có liên quan trước khi tổng hợp và thẩm định trình cấp có thẩm quyền phê duyệt nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.

- Quỹ đất thanh toán cho các dự án BT không có sẳn: Đối với các dự án theo hình thức BT, hiện nay quỹ đất sạch để thanh toán cho nhà đầu tư gần như không có sẵn mà nhà đầu tư phải ứng vốn bồi thường giải phóng mặt bằng, địa phương phải có kế hoạch sử dụng đất và thu hồi đất theo qui định,…

Một số giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động đầu tư theo PPP ở nước ta:

- Hoàn thiện khung pháp lý cho hình thức đầu tư theo PPP: Trước hết cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ theo hướng tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện. Tiến tới, ban hành luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư để tạo khung pháp lý đủ mạnh và ổn định làm cơ sở triển khai hiệu quả mô hình hợp tác công tư.

- Phải có bộ phận chuyên trách ở các bộ, ngành, địa phương về PPP, đồng thời nhanh chóng bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác PPP ở các bộ, ngành, địa phương.

- Đẩy nhanh quá trình chuẩn bị dự án: Đề góp phần đẩy nhanh quá trình chuẩn bị dự án và tạo ra tính minh bạch, các bộ, ngành, đi6a phương cần sớm hình thành nguồn vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư nhằm hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án theo hình thức PPP,…

- Tạo quỹ đất và các phương thức thanh toán khác cho dự án BT: các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng rà soát việc thực hiện các quy định về việc tạo quỹ đất thanh toán cho các dự án thực hiện theo hình thức BT,…

Bài viết: Nguyễn Thanh Trường

Tài liệu tham khảo:

- Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015  của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

- Tài liệu Hội nghị thường niên các Quỹ đầu tư địa phương năm 2017.

- Bài viết "Mô hình PPP và thực trạng áp dụng tại Việt Nam" của Ths. Lê Phước Hoài Bảo đăng trên website: khucongnghiep.com.vn

- Bài viết "Vì sao hình thức đầu tư PPP đơn điệu và trầm lắng?" của Tuấn Dũng đăng trên báo Đấu thầu.

Video liên quan

Chủ Đề