Đường biên giới của Trung Quốc dài bao nhiêu km?
Trung Quốc giáp với Afghanistan (76 km), Bhutan (470 km), Ấn Độ (ba đường biên giới dài tổng cộng 3.380 km), Kazakhstan (1.533 km), Triều Tiên (1.416 km), Kyrgyzstan (858 km), Lào (423 km), Mông Cổ (4.677 km), Myanmar (2.185 km), Nepal (1.236 km), Pakistan (523 km), Russia (hai đường biên giới dài tổng cộng gần 4.000 km), Tajikistan (414 km). Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.400 km. Đường biên giới dài khiến Bắc Kinh chi tiêu nhiều cho biên phòng và cửa khẩu. Theo báo cáo tại lễ khai mạc đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, Bắc Kinh đặt ngân sách quốc phòng năm 2019 ở mức cao hơn 7,5% so với 2018, tương đương 1,19 nghìn tỷ nhân dân tệ (177,61 tỷ USD). Vài phần biên giới của Trung Quốc khá thú vị. Những đoàn tàu đi qua ranh giới giữa Mông Cổ và Trung Quốc phải thay bánh tại thị trấn Erlian thuộc Nội Mông. Thủ tục này là điều bắt buộc, bởi đường ray tại Trung Quốc hẹp hơn so với Mông Cổ.
Thay bánh cho đoàn tàu Trans-Mongolian Xe lửa chạy từ Bắc Kinh đến Moskva cần thay đổi khung gầm và bánh xe tại ga Erlien ở Nội Mông, phía bắc Trung Quốc, vì Mông Cổ và Nga sử dụng đường ray rộng 1520 mm, trong khi Trung Quốc sử dụng đường ray rộng 1435 mm. Video: Johtho79/YouTube. Những người chinh phục Everest không chỉ leo lên nóc nhà của trái đất, mà còn đi trên đường biên giới cao nhất thế giới vốn là một sống núi băng tự nhiên ngăn cách Trung Quốc và Nepal. Một trong những phần biên giới được canh gác nghiêm ngặt nhất là của Trung Quốc với Triều Tiên. Telegraph đánh giá công tác biên phòng tại phần biên giới này phải được thắt chặt để ngăn những tranh chấp về lãnh thổ hay những cuộc đào tẩu của người Triều Tiên. Khách tham quan trên một đài quan sát gần thị trấn Hồn Xuân, Cát Lâm, Trung Quốc. Đây là nơi du khách có thể cùng lúc nhìn thấy lãnh thổ Nga (trái), Trung Quốc (giữa) và Triều Tiên (phải). Ảnh: Damir Sagolj/Reuters. Nga là quốc gia có đường biên giới trên đất liền dài thứ hai trên thế giới với tổng chiều dài hơn 20.000 km, giáp 14 quốc gia: Azerbaijan, Belarus, Trung Quốc, Estonia, Phần Lan, Georgia, Kazakhstan, Triều Tiên, Latvia, Lithuania, Mông Cổ, Na Uy, Ba Lan và Ukraine. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác định được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với một hệ thống mốc giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển giữa hai nước, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. * hình: Cột mốc biên giới tại cửa khẩu Hà khẩu- Lào cai. Ngày 30/12/1999, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp ước biên giới trên đất liền. Sau 8 năm triển khai công tác phân giới, cắm mốc, ngày 31/12/2008, hai Bên đã kết thúc toàn bộ công tác phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc theo đúng thỏa thuận giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước. Đây là sự kiện rất quan trọng không chỉ đối với nước ta và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, mà còn đối với cả khu vực. Dư luận trong nước và quốc tế rất quan tâm đến sự kiện này. 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐƯỜNG BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN VIỆT – TRUNG. Đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.400km, tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc; được hoạch định và phân giới, cắm mốc lần đầu tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch định biên giới ngày 26/06/1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20/06/1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc). Địa hình dọc đường biên giới chủ yếu là đồi núi cao và sông suối, trong đó có gần 400km đường biên giới đi theo sông suối. Trong hơn 100 năm qua kể từ khi các Công ước Pháp – Thanh được ký kết, đường biên giới giữa hai nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết và do biến động về chính trị - xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ hai nước, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới 1979. Từ nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, tình hình tranh chấp căng thẳng ở các khu vực biên giới diễn ra khá phổ biến. Ngay sau khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến việc giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ với các nước láng giềng. Ngày 02/11/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên tôn trọng đường biên giới lịch sử được hoạch định trong các Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895, hai Bên thông qua đàm phán giải quyết mọi tranh chấp. Tháng 4/1958, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam. Sau khi bình thường hóa quan hệ, từ tháng 10/1992, hai Bên tiến hành đàm phán lần thứ tư về biên giới lãnh thổ. Sau 01 năm đàm phán, tháng 10/1993, hai Bên đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc, theo đó hai Bên đồng ý lấy các Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 và các văn kiện, bản đồ hoạch định, cắm mốc biên giới kèm theo làm căn cứ để xác định lại đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc; các khu dân cư hai bên đã sinh sống lâu đời thì duy trì cuộc sống ổn định của dân cư; đối với những đoạn biên giới sông, suối thì giải quyết theo nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Hiệp ước 1999 là sự kiện quan trọng có ý nghĩa to lớn trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Đặc biệt, Hiệp ước 1999 là cơ sở pháp lý cho việc phân giới, cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Ngay sau khi ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, hai Bên đã thành lập Ủy ban Liên hợp phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; thỏa thuận chia đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành 12 đoạn, giao cho 12 Nhóm liên hợp phối hợp tiến hành công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa. Về phía ta, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc gồm Lãnh đạo một số bộ, ngành liên quan và Lãnh đạo các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành lập Ban chỉ đạo phân giới cắm mốc của tỉnh do một đồng chí lãnh đạo tỉnh làm Trưởng ban.
Trong 2 năm 2002 và 2003, hai bên thoả thuận tiến hành công tác phân giới, cắm mốc theo hình thức “cuốn chiếu” từ Tây sang Đông, tức là làm đến đâu dứt điểm đến đó. Trong giai đoạn này, do hai Bên còn có nhận thức khác nhau về cách thức triển khai nên công tác phân giới, cắm mốc tiển triển rất chậm, hai Bên chỉ cắm được 89 cột mốc.
ii) Giải quyết tất cả các khu vực trong “gói” theo cùng một tiêu chí. iii) Công bằng, hợp tình, hợp lý; cân bằng về lợi ích, hai Bên đều chấp nhận được. iv) Biên giới đi qua tất cả mốc cũ và các dấu tích lịch sử. v) Giảm thiểu tối đa tác động đến đời sống dân cư.
- Tại cửa khẩu Hữu Nghị, đường biên giới đi qua Km0, mốc 19 cũ của Pháp và cách điểm nối ray 148 mét về phía Bắc, đúng theo bản Ghi nhận chung giải quyết các khu vực C; - Tại một số cửa khẩu khác, đường biên giới đều đi qua các mốc cũ từ thời Pháp - Thanh: tại cửa khẩu Chi Ma, đường biên giới đi qua mốc cũ số 44; tại cửa khẩu Tân Thanh, đường biên giới đi theo một đường thẳng qua mốc cũ số 15; tại cửa khẩu Pò Peo, đường biên giới đi theo bức tường đá qua mốc cũ số 72 và qua một chòi quan sát của Trung Quốc trên đỉnh núi; tại cửa khẩu Trà Lĩnh đường biên giới đi theo phía Nam con đường của Trung Quốc; Trung Quốc giữ lại hàng cây, Ta giữ được hầu hết đất canh tác, nguồn nước và khu nghĩa địa của dân. - Tại khu vực Hoành Mô, đường biên giới đi giữa ngầm Hoành Mô theo như thực tế quản lý. - Đối với hai khu dân cư tại Hà Giang và Lạng Sơn, trên cơ sở giảm thiểu tối đa tác động đến khu dân cư, hai bên đã nhất trí điều chỉnh đường biên giới trên cơ sở cân bằng diện tích, giữ nguyên trạng khu dân cư. Cụ thể, Ta giữ được nguyên trạng toàn bộ bản Ma Lỳ Sán ở Hà Giang gồm 13 hộ, 65 khẩu; Trung Quốc giữ được 13 nóc nhà (tiếp giáp địa bàn tỉnh Lạng Sơn).
- Công tác phân giới, cắm mốc nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước hai nước. Về phía ta, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ đã triệu tập nhiều cuộc họp để nghe báo cáo tình hình và cho ý kiến chỉ đạo các cuộc đàm phán. Nhiều đồng chí Lãnh đạo cấp cao đã trực tiếp lên khảo sát thực địa nhiều lần để nắm tình hình và động viên các lực lượng phân giới, cắm mốc.
- Thực tiễn quốc tế cho thấy không có văn bản nào có thể mô tả chi tiết đường biên giới cũng như các yếu tố liên quan đến đường biên. Với việc ký kết Hiệp ước năm 1999, đường biên giới mới chỉ được mô tả bằng lời văn trong Hiệp ước và được vẽ trên bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000. Đường biên giới trên bản đồ là một nét bút mực, khi chuyển ra thực địa có thể sai lệch hàng chục, thậm chí hàng trăm mét. Do vậy, để phân giới, cắm mốc chính xác là việc làm hết sức khó khăn. Trong một số trường hợp, sự không thống nhất giữa lời văn Hiệp ước, bản đồ đính kèm và thực địa dẫn đến việc không thống nhất được hướng đi của đường biên giới; do đó đã tạo ra các khu vực tồn đọng, ảnh hưởng đến việc hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc.
Việc hoàn thành toàn bộ công tác phân giới, cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước xác định được một đường biên giới rõ ràng trên đất liền với một hệ thống mốc giới hiện đại, đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển giữa hai nước, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Phân giới, cắm mốc mới chỉ hoàn thành trên thực địa. Sắp tới, ta và Trung Quốc còn phải tiếp tục hợp tác chặt chẽ với nhau để xây dựng các văn bản pháp lý liên quan nhằm tạo thuận lợi cho việc quản lý biên giới, phục vụ việc giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa hai nước. Cụ thể là: |