Giai cấp nào là gốc của cách mạng

Mục lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Quan niệm
  • 3 Sứ mệnh lịch sử
    • 3.1 Quan điểm
    • 3.2 Khái niệm
    • 3.3 Nội dung
    • 3.4 Điều kiện quy định
      • 3.4.1 Về khách quan
      • 3.4.2 Về chủ quan
  • 4 Chủ nghĩa quốc tế
    • 4.1 Khái niệm
    • 4.2 Nội dung
    • 4.3 Cơ sở hình thành
    • 4.4 Chủ thể thực hiện
    • 4.5 Hình thức
  • 5 Chú thích

Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, xác lập hệ tư tưởng mới cho dân tộc

27 November 2020

1. Hành trình đến với chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc

Từ cuối thế kỷ XIX, năm 1884 do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn với việc ký kết hiệp định Patơnốt, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và biến thành thuộc địa, nửa phong kiến. Với chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã hội Việt Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội và sự bần cùng của đại đa số dân cư. Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường dân tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra. Mục tiêu chung là bảo vệ, khôi phục nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn hưng đất nước như phong trào Cần Vương trong hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân theo xu hướng tư sản đầu thế kỷ XX, đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ mang tính chất quần chúng sâu sắc... Tuy nhiên, tất cả các phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước, song nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc của các phương cách cứu nước truyền thống Việt Nam trước sự chuyển biến của thời cuộc. Song sự thất bại đó không hề vô ích, nó là động lực thôi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn dắt.

Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Tất Thành rất đau xót trước cảnh lầm than, cơ cực của đồng bào mình. Người sớm có ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Với với lòng yêu nước sâu sắc, lại được tiếp xúc với các văn thân, sĩ phu yêu nước và phong trào đấu tranh chống chế độ thực dân, cảm nhận những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về “tự do, bình đẳng, bắc ái” được truyền đến Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào. Người nhận thấy những bất cập và bế tắc của con đường cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu cầu bức bách đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách mạng mới và Người đã đảm đương trọng trách đó.

Làm thế nào để giải phóng được dân tộc và mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân? Có con đường nào khác so với con đường cứu nước của các vị tiền bối không? Sang phương Tây hay tiếp tục tìm kiếm con đường cứu nước ở phương Đông? Đây chính là những câu hỏi luôn ngự trị và thôi thúc trong con người của Hồ Chí Minh. Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, bởi trong Người đang nung nấu một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu” [1]. Ngày 6/5/1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng với tên gọi Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước. Người nhận thức sâu sắc mục tiêu của chuyến đi sang phương Tây là học hỏi, tìm kiếm và lựa chọn một con đường phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Đi đến bất cứ quốc gia nào, châu lục nào, Nguyễn Ái Quốc luôn hòa mình vào quần chúng nhân dân, tìm hiểu đời sống nhân dân các nước thuộc địa, cũng như cuộc sống của nhân dân các nước chính quốc, tích cực nghiên cứu các phong trào cách mạng trên thế giới để rút ra những bài học quan trọng cho bản thân. Và Người đã rút ra kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” [2].

Trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng với tên gọi Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước [Ảnh: Tư liệu]

Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo của Lênin và Đảng Bônsêvích đã nổ ra và giành thắng lợi. Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản điển hình đầu tiên trên thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga là sự hiện thực hóa chủ nghĩa Mác - Lênin hướng tới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Do đó, sau này khi nói về Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với số phận các dân tộc phương Đông. Nó đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức ở châu Á, chỉ cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc con đường giải phóng, nêu gương tự do dân tộc thực sự” [3].

Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới cho các dân tộc thuộc địa, đó là thời đại chống đế quốc và đi theo con đường cách mạng vô sản. Tuy nhiên, tại thời điểm năm 1917 khi đang ở Pháp thì Nguyễn Ái Quốc chưa biết gì đến chủ nghĩa Mác - Lênin, chưa thấu hiểu hết ý nghĩa của Cách mạng tháng Mười Nga mà Người chỉ mới thấy được ánh sáng của một cuộc cách mạng mà nó thu hút được nhân dân tham gia dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Năm 1919, cùng với một số người Việt Nam yêu nước đang ở Pháp, Hồ Chí Minh đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở Pháp, gửi tới Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân nhân An Nam nhằm đòi các quyền lợi thiết thực. Bản Yêu sách của Người dù không được chấp nhận nhưng đã gây một tiếng vang lớn, nó hướng các dân tộc thuộc địa tới một con đường mới. Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc có bước nhận thức mới về quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của Nguyễn Ái Quốc đã hướng gần với Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tòi, hoạt động không ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Ngày 17/7/1920. lần đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo [L’Humanite] của Pháp, số ra ngày 16 và 17- 7- 1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vô sản, con đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin có những điểm đặc biệt, khác hẳn về chất so với những văn kiện và các tác phẩm nổi tiếng trước đó như Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, Khế ước xã hội của J.J Rutxo... Chính điểm khác biệt đó đã giải quyết được những trăn trở của Nguyễn Ái Quốc suốt gần 10 năm trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Do đó, Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra được con đường giải phóng dân tộc là đi theo con đường cách mạng vô sản.

Sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lênin, cùng với những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa, là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản [Quốc tế III] và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ XVIII tổ chức ở thành phố Tours, tháng 12/1920. Từ đây, Người chính thức trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong hành trình tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Người.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920. [Ảnh: Tư liệu]

2. Sự chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam khi bắt gặp Luận cương của Lênin

Luận cương của V.I. Lênin tác động mạnh mẽ tạo ra sự biến đổi mang tính chất bước ngoặt, căn bản, về chất trong tư tưởng, tình cảm, quan điểm, lập trường, cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, giúp Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản - được coi là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Người chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường vô sản.

Thứ nhất, Người đã xác định rõ kẻ thù của giai cấp, của dân tộc và phải chĩa ngọn cờ cách mạng vào đúng kẻ thù.

Nhận thức về bản chất chế độ tư bản chủ nghĩa, Lênin viết: “Chế độ dân chủ tư sản, do bản chất của nó, vốn có cái lối đặt vấn đề một cách trừu tượng hoặc hình thức về quyền bình đẳng nói chung, trong đó bao gồm cả quyền dân tộc bình đẳng. Nấp dưới quyền bình đẳng của cá nhân nói chung, chế độ dân chủ tư sản tuyên bố quyền bình đẳng hình thức hoặc quyền bình đẳng trên pháp luật giữa kẻ hữu sản và người vô sản, giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; do đó, làm cho những giai cấp bị áp bức bị lừa dối một cách ghê gớm” [4]. Nội dung của Luận cương Lênin đã đánh giá đúng tình hình lịch sử cụ thể; phải phân biệt rõ rệt lợi ích giai cấp của những người lao động, những người bị bóc lột, làm sáng tỏ bức tranh của chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nhân dân lao động chính quốc, đồng thời đô hộ đàn áp các nước thuộc địa. Về kẻ thù của cách mạng Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt năm 1930, đó là: thực dân Pháp và bọn phong kiến. Đồng thời, phân tích rõ mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc để lôi kéo, đoàn kết tập trung mọi lực lượng tiến hành cách mạng, nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của giai cấp vô sản, nhân dân lao động.

Thứ hai, Sơ thảo Luận cương của Lênin chỉ rõ cho Nguyễn Ái Quốc thấy động lực to lớn và lực lượng chính của cách mạng đó là giai cấp công nhân và nông dân.

Từ ý chí tìm lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, từ thực tiễn hoạt động cách mạng, thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân trong các cuộc đấu tranh nhất là cuộc cách mạng tháng Mười Nga, lại được lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Nguyễn Ái Quốc đã xác định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân và nông dân: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [5].

Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mà Sơ thảo Luận cương của Lênin đã vạch ra, đó là: Con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người. Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” [tức cách mạng dân tộc dân chủ], “thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi tới xã hội cộng sản” [6]. Có thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác, giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở thuộc địa ở Việt Nam.

Sau này Người viết: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế ba” [7]. Khi ủng hộ Quốc tế III, tin theo Lênin Người vẫn chưa thực sự hiểu về cách mạng tháng Mười Nga, càng chưa thể hiểu được học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin là gì. Nhưng sau khi đọc Sơ thảo luận cương của Lênin, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [8].

Thứ tư, Sơ thảo Luận cương của Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng cách mạng ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước ở chính quốc. Cơ sở của quan điểm này xuất phát từ nhận thức sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc của Nguyễn Ái Quốc. Người viết: “chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nên muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra” [9]. Khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và vai trò quan trọng của cách mạng ở thuộc địa, Người chỉ rõ: Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa. “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ” [10].

Lênin là người đã phát hiện ra vai trò to lớn của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận một cách sâu sắc. Tại Đại hội lần thứ I của Quốc tế III, Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi vô sản các nƣớc đoàn kết lại. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp” [11].

Có thể khẳng định, Luận cương của Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Do nhu cầu của cách mạng, Người càng ra sức tìm hiểu và thấu suốt được tinh túy của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra. Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành ngƣời cộng sản. Qua Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đó con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Chính Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, 40 năm sau nhìn lại sự kiện này, đã viết: “Riêng về cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa” [12].

Luận cương của Lênin đến nay đã tròn một thế kỷ, nhưng giá trị của Luận cương vẫn còn trường tồn, soi sáng con đường đi tới thắng lợi của Đảng ta. Hiện nay, toàn Đảng và toàn dân ta đang ra sức tích cực thi đua, lao động sản xuất để chào mừng đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Trên con đƣờng phát triển của mình, Đảng ta luôn trung thành với con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn - đó là con đường vững chắc để đưa đất nước ta ngày càng phát triển hùng mạnh.

Chú thích:

[1]. Hồ Chí Minh [2006], Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.112.

[2]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 287.

[3]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.179.

[4]. Lênin [1978], Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.198.

[5]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.288.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam[2002], Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.2

[7]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289.

[8]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.562.

[9]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30.

[10]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 287

[11]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30.

[12]. Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, tập 1 2, Nxb Chính trị quốc gia, tr.740.

ThS. Tạ Thị Hồng

Khoa Lý luận cơ sở

Chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng XHCN - Giá trị và những nội dung cần bổ sung, phát triển

Tác giả

Chủ nhật, 03/02/2019 09:25 0 Bình luận

[Mặt trận] - Lý luận về liên minh giai cấp và tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với xây dựng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, hệ lý luận về liên minh giai cấp và các tầng lớp trong xã hội được Đảng ta kiên định thực hiện và bổ sung, phát triển, xây dựng nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

Quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh công - nông

C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi nếu giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu không thì bài “đơn ca” cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài “ai điếu”.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến khả năng và sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp vô sản với các tầng lớp trung gian. Sau cách mạng 1848 - 1852 ở Tây Âu, các ông thấy rõ, vấn đề liên minh giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội, nhất là giai cấp nông dân trở thành vấn đề có tính sống còn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã Pa-ri [năm 1871] cũng là do giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân. Từ thực tiễn lịch sử sinh động của Công xã Pa-ri, C.Mác đã bổ sung cho lý luận của mình về liên minh công - nông: đó là vai trò hết sức quan trọng của giai cấp nông dân không chỉ trong việc giành chính quyền mà còn cả trong việc giữ chính quyền.

Tuy nhiên, sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân, mà còn từ phía giai cấp nông dân. Giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân, không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định: “Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng”1. Vì “... người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên của mình”2. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng.

Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ, địa phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên trình độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ tư tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể ngả theo giai cấp công nhân và cũng có thể ngả theo giai cấp tư sản. Vấn đề là, trên thực tế ai đem lại và bảo vệ lợi ích cho họ.

Về nội dung của liên minh công - nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác.

Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã”3. Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”4. Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân: “Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định như thế”5. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không thể coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách lược của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân khác nhau.

Không chỉ dừng lại ở việc luận giải tính tất yếu, nội dung, và nguyên tắc của liên minh công - nông, C.Mác phê phán quan điểm của phái Látxan cho rằng: “Ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác chỉ là một khối phản động”. C.Mác đã nhắc lại “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” có ghi: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản, thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”6.

C.Mác khẳng định: “Látxan thuộc làu cuốn “Tuyên ngôn cộng sản”, cũng như các tiến đồ của ông ta thuộc những thánh thư do ông ta viết ra. Sở dĩ ông ta xuyên tạc cuốn “Tuyên ngôn” một cách thô bỉ như thế vì đó chỉ là để biện hộ cho sự liên minh của ông ta với những kẻ thù chuyên chế và phong kiến chống giai cấp tư sản”7. C.Mác lý giải phái Látxan cho rằng: “Việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân, đối với giai cấp công nhân tất cả các giai cấp khác chỉ gộp thành một khối phản động”8 thì đó là một điều phi lý. Thực chất quan điểm Látxan đòi phủ định khả năng tham gia cách mạng của giai cấp nông dân và tiểu tư sản; phủ nhận một vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản là vấn đề bạn đồng minh tạm thời và lâu dài của giai cấp vô sản, đã đẩy giai cấp vô sản vào thế bị cô lập, điều đó chỉ có lợi cho giai cấp bóc lột.

C.Mác phê phán phái Látxan đưa ra yêu sách: Tổ chức những “Hợp tác xã sản xuất” của công nhân do nhà nước giúp đỡ. C.Mác cho rằng: Đề ra yêu sách này mục đích làm cho phong trào công nhân quay về hoạt động bè phái, thay thế đấu tranh giai cấp bằng những hoạt động bè phái, làm cho phong trào công nhân đi vào thế cô lập trước mặt kẻ thù giai cấp. Theo C.Mác, nói rằng những người lao động muốn xây dựng những điều kiện sản xuất tập thể theo quy mô xã hội và trước hết theo quy mô dân tộc, điều đó chỉ có nghĩa là: họ cố gắng tìm cách lật đổ những điều kiện sản xuất hiện nay và việc đó không liên quan gì tới việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước giúp đỡ. Lập luận của Látxan và quan điểm phủ định liên minh công - nông của bọn cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế II có mối liên hệ tư tưởng rất rõ ràng, cho nên phê phán của C.Mác đối với chủ nghĩa Látxan trên vấn đề này đã vạch ra đường lối cơ bản cho việc phê phán chủ nghĩa cơ hội sau này trong phong trào cộng sản quốc tế.

Quan điểm của V.I.Lênin về liên minh công - nông

Kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vị trí, vai trò của liên minh công - nông, V.I.Lênin cho rằng, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản [tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v.] hoặc với phần lớn những tầng lớp đó; liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội”9.

Theo luận điểm này, V.I.Lênin chỉ ra: Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì khối liên minh này đã tập hợp được những giai cấp và tầng lớp xã hội đông đảo và mạnh nhất trong các giai tầng xã hội, trong đó giai cấp công nhân là tiên tiến nhất. Xét về nguyên tắc lãnh đạo xã hội, thì người lãnh đạo cao nhất và duy nhất chỉ là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ được giữ vững khi đảng tổ chức và lãnh đạo được khối liên minh. Xét về lợi ích cơ bản thì nguyên tắc cao nhất và mục tiêu của chuyên chính vô sản là vì lợi ích toàn thể nhân dân lao động. Như vậy, sức mạnh và độ bền vững của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là thể hiện sức mạnh của Đảng, Nhà nước và tính hiện thực quyền làm chủ xã hội của nhân dân lao động, đó là những yếu tố cơ bản của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp.

V.I.Lênin nêu nhiều luận điểm về liên minh công - nông - trí thức. Trong đó có luận điểm: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp không phải vô sản [tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức]”10. Người còn khẳng định: “Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giữa kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được”11.

Trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin phê phán quan điểm phi lịch sử của phái “dân tuý” cho rằng nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Đồng thời, khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cho rằng, đã có chủ nghĩa tư bản thì có đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện vật chất cho chế độ mới, và đồng thời cũng tạo ra một lực lượng xã hội mới: Giai cấp công nhân công xưởng - nhà máy, giai cấp vô sản thành thị. Tuy phải chịu cùng một sự bóc lột tư sản, mà xét theo thực chất kinh tế của nó thì sự bóc lột toàn thể nhân dân lao động ở Nga cũng là một sự bóc lột như thế, nhưng giai cấp đó lại được đặt trong những điều kiện đặc biệt có lợi cho sự giải phóng của nó: chẳng có cái gì gắn bó nó với cái xã hội cũ hoàn toàn xây dựng trên sự bóc lột; chính bản thân những điều kiện lao động của nó và hoàn cảnh sinh sống của nó đã tổ chức nó lại, buộc nó phải suy nghĩ, làm cho nó có khả năng bước lên vũ đài đấu tranh chính trị”12.

Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, là một tất yếu và đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ nhất, tập trung nhất và quyết liệt nhất, trong cuộc đấu tranh đó giai cấp công nhân phải liên minh với nông dân, vì nông dân là lực lượng của cách mạng. Ông đề cập tư tưởng liên minh công - nông và cho rằng, đường lối thì của một giai cấp, còn lợi ích thì của sự liên minh giai cấp. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng không chỉ đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân mà cho cả giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động.

Về thái độ đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ thành lập một đảng công nhân mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa giai cấp công nhân và nông dân, coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản.

Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm của V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những người cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc tham gia các công đoàn phản động”13. V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn thuận lợi và dễ dàng, mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết có tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết, rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi: Những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh hưởng của giai cấp vô sản”14.

Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không chỉ là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nó còn xuất phát từ những cơ sở khách quan khác, cụ thể: Thứ nhất, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là điều kiện đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là điều kiện quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Thứ hai, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất lợi ích cơ bản của tất cả các giai cấp, tầng lớp. Thứ ba, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “… thực hiện liên minh công nông là một việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản”15.

Hầu hết những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa như đã trình bày cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, có những luận điểm đã bị lịch sử vượt qua, chẳng hạn luận điểm “liên minh công - nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản”. Bởi vì hiện nay, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã thay đổi. Nhiều nước tỷ lệ dân cư là nông dân đã giảm xuống tuyệt đối; hơn nữa, quá trình trí thức hóa công nhân, công nhân hóa nông dân cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Vậy, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia, dân tộc để xác định liên minh giai cấp và các tầng lớp cho đúng…

Mặt khác, hiện nay trên thế giới, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa không dùng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”, thay vào đó sử dụng thuật ngữ có cùng bản chất là “hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa”. Một trong những đặc điểm của của hệ thống chính trị đó là một hệ thống tổ chức, hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị, do giai cấp công nhân thống trị lãnh đạo nhằm thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền lực của giai cấp công nhân; là sự liên minh giai cấp trong đấu tranh giành, giữ, củng cố và sử dụng quyền lực chính trị và trên bề mặt xã hội, nó đại diện cho toàn xã hội.

Trước những biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh để thích nghi, nhằm kéo dài sự tồn tại của chúng… thì những nội dung cần bổ sung, phát triển quanđiểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa tập trung cần quan tâm, đó là: một là, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong khối liên minh; hai là, nội dung thực chất của liên minh; ba là, nguyên tắc của liên minh, nhất là nguyên tắc bảo đảm về lợi ích; bốn là, phương thức tập hợp lực lượng…

2. Ý nghĩa của nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam hiện nay

* Quá trình nhận thức của Đảng ta về liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức

Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh giai cấp, tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam, ngay từ văn kiện Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân… Lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”16.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam năm 1991, Đảng ta xác định: xây dựng khối liên minh công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”17.

Tổng kết thành tựu của 25 năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ một trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi của lịch sử”18.

Hiện nay, vấn đề liên minh công - nông đã được mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và trở thành nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”19, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nguyễn Thị Tuyết* - Hà Sơn Thái**

* Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

** Tiến sĩ, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Chú thích:

1. C.Mác và Ph.Ăngghen,Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 7, tr. 84 - 85.

2. C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 269.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 737 - 738.

4. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 736.

5. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 738.

6. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 613.

7. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 39.

8. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 37.

9. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

10. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr 452.

11. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 40, tr 218.

12. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t. 1, tr.234 -235.

13. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.72.

14. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 41, tr.74.

15. V.I. Lênin, Toàn tập, [Tiếng Việt], Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t. 39, tr. 340.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr.437.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 158.

Tags

​Chủ nghĩa Mác - Lênin liên minh giai cấp tầng lớp cách mạng xã hội chủ nghĩa

Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam

22/04/2019

Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng

16/04/2019

Giá trị bền vững của ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’

11/04/2019

Báo chí với công tác tuyên truyền hình ảnh Việt Nam ra thế giới

27/03/2019

Một số hình ảnh

Video liên quan

Chủ Đề