Giữa các thị tộc trong bộ lạc có Quan hệ với nhau như thế nào

Thị tộc, bào tộc, bộ tộc, sắc tộc, dân tộc là những khái niệm thường xuyên gây ra sự nhầm lẫn về mặt ý nghĩa người dùng. Trong bài viết dưới đây, Khacnhaugiua.vn sẽ giúp bạn phân biệt sự khác nhau giữa thị tộc, bào tộc, bộ tộc, sắc tộc, dân tộc. Tham khảo ngay nhé!

1. Khái niệm

Một trong những tiêu chí đầu tiên giúp bạn phân biệt thị tộc, bào tộc, bộ tộc, sắc tộc, dân tộc chính là khái niệm của chúng.

Cụ thể, thị tộc là cộng đồng người [gồm khoảng vài trăm người] có cùng một huyết thống. Thị tộc là một hình thức tồn tại cơ bản và là một đơn vị sản xuất của xã hội nguyên thuỷ.

Bộ tộc là cộng đồng dân cư được hình thành liên kết từ nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định.

Một tổ chức xã hội thuộc thời đại nguyên thuỷ là Bào tộc, bao gồm nhiều thị tộc gần gũi với nhau và không được phép kết hôn trong nội bộ.

Là cộng đồng dân cư được liên kết từ nhiều bộ lạc cũng như liên minh các bộ lạc, bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc. Mỗi bộ lạc có những đặc điểm kinh tế văn hoá riêng cũng như có tên gọi riêng. 

Trong khi đó, bộ tộc lại có lãnh thổ ổn định với dân cư đa dạng đa ngôn ngữ, đa văn hoá sống đan xen cùng nhau. Ngôn ngữ của bộ lạc nào được sử dụng nhiều nhất và đóng vai trò quan trọng trong việc giao lưu và phát triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của cả bộ tộc.

Một cộng đồng dân cư được hình thành từ một bộ tộc hoặc sự liên kết của tất cả các bộ tộc được gọi là dân tộc khi sống trên cùng một lãnh thổ.

Sắc tộc là một nhóm được định nghĩa theo đặc tính xã hội. Dựa trên di sản văn hoá, lịch sử chung, nguồn gốc tổ tiên, ngôn ngữ, nơi ở, nguồn gốc tổ tiên, nghi lễ, đặc điểm cơ thể, phong cách trang phục,…

2. Thời gian hình thành

Thời gian hình thành thị tộc, bào tộc, bộ tộc, sắc tộc và dân tộc cũng hoàn toàn khác nhau. Theo đó, thị tộc là hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử. Bởi vì lực lượng sản xuất chưa có trình độ phát triển, nguồn sống phụ thuộc chủ yếu vào trồng trọt và chăn nuôi nên vai trò của người phụ nữ trong thị tộc có một vị trí đặc biệt. 

Phụ nữ có địa vị độc tôn trong chế độ quần hôn thời kỳ đầu với hình thức thị tộc mẫu quyền. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm thay đổi vị trí của người đàn ông trong chế độ. Hình thức phụ quyền dần thay thế cho hình thức mẫu quyền thị tộc.

Thị tộc là hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử.

Trong khi đó, thời kỳ hình thành bộ tộc là thời kỳ đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của xã hội công xã nguyên thuỷ, sở hữu tập thể của thị tộc, bộ lạc dần bị thay thế bởi sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời. Các nhà nước có tổ chức chính trị, giai cấp xã hội dần được hình thành. Phạm vi thống trị thay đổi. Có thể nói bộ tộc chính là hình thái xã hội phát triển cao hơn thị tộc.

Dân tộc được hình thành từ sự liên kết của tất cả các bộ tộc hoặc chỉ từ một bộ tộc sống cùng trên một lãnh thổ. 

Bào tộc và sắc tộc hiện chưa có thời gian phát triển rõ ràng, hoặc thời điểm nào người ta bắt đầu sử dụng hai khái niệm này.

3. Đặc trưng của từng hình thái

Đặc trưng của từng hình thái là tiêu chí rõ ràng nhất để phân biệt thị tộc, bào tộc, bộ tộc, sắc tộc, dân tộc.

Bên cạnh huyết thống, thị tộc còn bao gồm những quan hệ về ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hoá, tập quán có tính cộng đồng. Mỗi thị tộc có vùng săn bắt, khu vực cư trú và tên gọi riêng. 

Thị tộc có cơ sở tồn tại về kinh tế bao gồm quyền sở hữu chung về tài sản và tư liệu sản xuất. Những người trong thị tộc cùng lao động, các sản phẩm được chia đều cho các thành viên trong cùng thị tộc.

Tộc trưởng là người lãnh đạo thị tộc được mọi người bầu ra. Việc quản lý, điều thành thị tộc dựa trên những quyết định của hội nghị bao gồm các thành viên trong thị tộc chấp hành và tôn kính cùng sự điều hành của tộc trưởng một cách tình nguyện.

Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có dân cư đa dạng, vùng lãnh thổ tương đối ổn định, đa ngôn ngữ và văn hoá, trong đó ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị thế chủ yếu của sự phát triển kinh tế cũng như giao lưu sẽ trở thành ngôn ngữ chung của cả bộ tộc.

Nhà nước có phạm vi thống trị không trùng với bộ tộc. Có nhà nước một bộ tộc cũng có nhà nước nhiều bộ tộc, sắc tộc. Đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, sự xuất hiện của nhà nước giúp thống nhất nền kinh tế và văn hoá, mở rộng giao lưu giữa các bộ tộc, đặc biệt là quan hệ giao lưu về phát triển kinh tế. 

Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa ngôn ngữ và văn hoá.

Nếu trong bộ tộc, các cộng đồng dân cư liên kết với nhau dựa trên những nguyên tắc pháp lý và chưa phải là một cộng đồng dân cư bền vững thì dân tộc có hình thức cộng đồng người gắn liền với các giai cấp xã hội, có tính thống nhất cao, ổn định dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao.Đây được xem là hình thái phát triển cao nhất của tộc người.

Dân tộc được đánh giá là bền vững và độ chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ và các đặc điểm về ý thức tự giác cũng như văn hoá.

So với bộ tộc thời phong kiến, dân tộc trong thời kì phát triển tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển với đặc trưng hàng hóa, hình thành thị trường quốc gia thống nhất, lãnh thổ bền vững không có tình trạng cát cứ.

Trong khi đó, sắc tộc dựa trên nguồn gốc tổ tiên, di sản văn hóa lịch sử chung, ngôn ngữ, nơi ở, và có thể những khía cạnh khác như tôn giáo, thần thoại và nghi lễ, ẩm thực, phong cách trang phục, đặc điểm cơ thể… Sắc tộc được phân loại dựa trên những đặc điểm chung kể trên.

Sự khác biệt nhỏ nhất trong phát âm cũng đủ trở thành yếu tố để phân biệt con người theo các sắc tộc khác nhau. Mặt khác, với những người khác nhau về tín ngưỡng, nhân cách, nơi cư trú, thời gian, thậm chí cả ngôn ngữ vẫn có thể xem nhau như cùng sắc tộc, và điều này được nhiều người công nhận. 

Người dân cùng sắc tộc có chung quy tắc ứng xử, có trách nhiệm với các thành viên khác, có quy tắc ứng xử cũng như chịu trách nhiệm về hành động của những người trong cùng tộc.

Trên đây là một số điểm khác nhau của thị tộc, bào tộc, bộ tộc, sắc tộc, dân tộc mà Khacnhaugiua.vn tổng hợp lại được. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào khác cần được giải đáp, vui lòng gửi câu hỏi về cho Khacnhaugiua.vn bạn nhé!

Câu 2: Thế nào là thị tộc, bộ lạc?


- Thị tộc là nhóm người có khoảng hơn 10 gia đình và có cùng chung một dòng máu. Đứng đầu là tộc trưởng.

- Bộ lạc là tập hợp những thị tộc sống gần nhau  sống ở ven sông suối, có quan hệ gắn bó với nhau, mọi của cải sinh hoạt được coi là của chung, cùng làm chung, cùng ăn chung, cùng hưởng thụ như nhau.... đứng đầu là tù trưởng và tính “cộng đồng” rất cao.


Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm lịch sử 10 bài 2: Xã hội nguyên thủy [P2]

Thị tộc là một một khái niệm rất quen thuộc trong lịch sử cả Việt Nam và thế giới. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại không phải ai cũng có cái nhìn đúng đắn và nắm được nội dung của thị tộc.

Do đó, trong bài viết hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến vấn đề: Thị tộc là gì?

Thị tộc là gì?

Thị tộc là cộng đồng người [gồm khoảng vài trăm người] có cùng một huyết thống. Thị tộc là một đơn vị sản xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thủy.

– Do trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, nguồn sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuôi, vì vậy vai trò của người phụ nữ trong thị tộc có một vị trí đặc biệt.

– Chế độ quần hôn thời kỳ đầu và địa vị độc tôn của người phụ nữ trong sản xuất chính là cơ sở hình thành hình thức thị tộc mẫu quyền đầu tiên trong lịch sử. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dã làm thay đổi vị trí của người đàn ông trong chế độ thị tộc. Hình thức thị tộc phụ quyền đã ra đời thay thế hình thức thị tộc mẫu quyền. Thị tộc là hình thức cộng đồng người đầu tiên trong lịch sử.

– Lãnh đạo thị tộc là một hội đồng thị tộc, đứng đầu là tộc trưởng được mọi người bầu ra. Việc quản lý điều hành thị tộc dựa trên nghị quyết của hội nghị thị tộc gồm các nam nữ đã thành niên trong thị tộc. Khi thị tộc trưởng đã được bầu, các thành viên trong thị tộc tôn kính và chấp hành sự điều khiển của tộc trưởng một cách tự nguyện.

Quý vị theo tục theo dõi các phần tiếp theo của bài viết thị tộc là gì? để có thêm thông tin hữu ích về lịch sử và giai đoạn phát triển quan trọng của thị tộc.

Hai giai đoạn quan trọng nhất của thị tộc

Thứ nhất: Sự phân công lao động giữa phụ nữ và đàn ông mang tính chất tự nhiên. Trong giai đoạn đầu, thị tộc là thị thị tộc mẫu quyền.

– Lực lượng sản xuất xã hội nguyên thủy tiếp tục phát triển. Trồng trọt và chăn nuôi dần trở thành nguồn sinh sống chủ yếu. Công việc nặng nhọc này phải do người đàn ông đảm nhiệm chính, vai trò của người đàn ông tăng lên trong đồi sống kinh tế của cộng đồng.

– Người đàn ông thời mông muội vừa là chiến sỹ, vừa là người đi săn thì phải giữ địa vị thứ yếu trong nhà, sau người đàn bà. Trái lại, khi là người chăn nuôi “có tính nết nhu mì hơn” thì họ lại tiến lên hàng thứ nhất và người đàn bà bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Chế độ mẫu quyền dần dần phải nhường chỗ cho chế độ phụ quyền.

Thứ hai: Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới nữ

Ngoài quan hệ cộng đồng thân tộc – huyết thống là đặc trưng chủ yếu, thị tộc còn những mối liên hệ cộng đồng sau đây:

– Các thành viên trong thị tộc có chung một tiếng nói. Ngôn ngữ thị tộc còn rất đơn giản.

– Mỗi thị tộc còn có tục lệ, tập quán, nghi thức tín ngưỡng riêng của mình.

– Trong mỗi thị tộc hình thành những yếu tố văn hóa nguyên thủy mang sắc thái của cộng đồng sản sinh ra chúng.

– Mỗi thị tộc có tên gọi riêng.

Về mặt tổ chức xã hội, hội nghị toàn thể của thị tộc bầu ra tù trưởng, thủ lĩnh quân sự và có thể bãi miễn họ khi thấy không xứng đáng.

Người đứng đầu thị tộc được các thành viên tôn kính, phục tùng một cách tự nhiên và tự nguyện. Đây là hình thức dân chủ đầu tiên trong lịch sử loài người.

Quy mô của thị tộc còn nhỏ bé, thường chỉ bao gồm từ mấy chục đến vài trăm thành viên. Theo tiến trình lịch sử, nhiều thị tộc sẽ liên kết với nhau thành bộ lạc.

Lịch sử phát triển của Thị tộc

– Theo những nội dung của sách giáo khoa về lịch sử ở Việt Nam thì ở giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người [xã hội nguyên thủy] thị tộc tuân theo chế độ mẫu hệ. Đó là tập hợp liên kết những người cùng huyết thống tính theo dòng mẹ. Ở giai đoạn sau, chế độ công xã thị tộc chuyển dần sang giai đoạn phụ hệ, gắn liền với quá trình xuất hiện của công cụ bằng kim loại. Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển giao vai trò từ người phụ nữ sang người đàn ông, đó là kiểu gia đình hiện đại một vợ một chồng như hiện nay. Công xã thị tộc là giai đoạn quá độ từ Bầy người Nguyên thủy sang xã hội có giai cấp.

– Tuy nhiên, các khái niệm trình bày trong sách giáo khoa về lịch sử nói trên được khái quát từ lịch sử các vùng phát triển trên thế giới, dựa trên kiến thức có được đến giữa thế kỷ XX. Nó không được cập nhật những kết quả nghiên cứu mới về cổ nhân loại học. Trong số đó đặc biệt là đã bỏ qua những thị tộc và bộ lạc hiện còn đang sống theo lối sống cổ xưa tại các vùng chưa phát triển. Cuộc sống của những bộ lạc này nhất.

– Người Hadza, Maasai,… ở châu Phi có lối sống săn bắt hái lượm nguyên thủy, không thay đổi trong chục ngàn năm qua. Họ tựa như những bảo tàng sóng về giai đoạn cổ xưa của lịch sử loài người. Cuộc sống của họ thể hiện thị tộc giống như và kế thừa lối sống xã hội theo đản nhỏ của linh trưởng nói chung và điển hình là các thành viên của họ Người [Hominidae, như tinh tinh và bonobo].

– Lối sống này có sự gắn kết xã hội của các thành viên kết hợp với sự phân thứ bậc của từng thành viên, trong đó thành viên khôn ngoan và khỏe mạnh hơn thì đảm nhận nhiều chức năng hơn. Nó cũng cho thấy chế độ mẫu hệ hay phụ hệ trong các dân tộc xuất hiện một cách đa dạng hơn. ở một số dân tộc như người Hadza, Maasai… thì chế độ mẫu hệ không cuất hiện.

Như vậy, Thị tộc là gì? Đã được chúng tôi trình bày chi tiết trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã phân tích những giai đoạn quan trọng cũng như là lịch sử phát triển của thị tộc.

Video liên quan

Chủ Đề