Hậu quả của lựa chọn giới tính là gì năm 2024

Biên phòng - Hiện nay, một nghịch lý xã hội đang diễn ra khi người có trình độ học vấn càng cao và càng giàu thì càng lựa chọn giới tính thai nhi, dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh càng trầm trọng. Năm 2019, mất cân bằng giới tính của Việt Nam được ước tính là khoảng 114,5 bé trai/100 bé gái, và xu hướng này đang tiếp tục gia tăng. Đây được coi là một trong những thách thức lớn nhất của việc đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên.

Hậu quả của lựa chọn giới tính là gì năm 2024
Phụ nữ xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình trao đổi, tìm hiểu các biện pháp phòng tránh thai an toàn.

Theo phân tích của các nhà điều tra nhân khẩu học cho thấy, tại Việt Nam hiện nay nhìn thấy từ tỉ số giới tính khi sinh khiến nhiều người bất ngờ là tỉ số giới tính khi sinh tăng lên theo trình độ học vấn của người mẹ. Lâu nay, người ta cứ nghĩ tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh sẽ rơi vào nhóm các bà mẹ có học vấn thấp nhưng kết quả lại cho thấy ngược lại. Tỷ số giới tính khi sinh tăng từ mức 106 -111 ở các bà mẹ có trình độ tiểu học lên mức 113 ở bậc Trung học phổ thông và cuối cùng là 115 ở bậc đại học trở lên (Điều tra Dân số và Nhà ở giữa kỳ 1/4/2014). Điều đáng ngạc nhiên là ở nhóm những bà mẹ với 3 năm đi học, tỉ số giới tính khi sinh tương tự mức sinh học tự nhiên là 105. Cũng theo đó, gia đình có thu nhập cao thì việc lựa chọn giới tính khi sinh càng lớn, cụ thể là tỷ số này là 113 bé trai/100 gái, trong khi đó nhóm dân cư nghèo đạt 107 bé trai/100 bé gái. Điều này cho thấy, người Việt càng có trình độ học vấn cao và có điều kiện kinh tế thì càng có kiến thức và điều kiện hơn để lạm dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong việc lựa chọn giới tính thai nhi.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế Nguyễn Thị Ngọc Lan cho biết: Bất bình đẳng giới là nguyên nhân làm gia tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, ngược lại mất cân bằng giới tính sẽ làm sâu sắc thêm vấn đề bất bình đẳng giới. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đó là hành vi lựa chọn giới tính thai nhi của các cặp vợ chồng. Mong muốn có con trai hiện nay không chỉ dừng ở biểu hiện tâm lý mà đã thể hiện thành hành động tìm kiếm con trai. Các quan niệm xã hội và tín ngưỡng đòi hỏi con trai phải gánh vác việc thờ cúng tổ tiên; con trai giúp củng cố địa vị của cha mẹ trong xã hội; đứa con sinh ra phải mang họ của bố; người chồng thường là chủ hộ trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn. Theo phong tục ở nhiều địa phương chỉ có con trai được thừa kế tài sản của cha mẹ, vị thế của người phụ nữ không được coi trọng, chính sách sinh ít con kéo dài... Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cá nhân, các cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ…

Truyền thống từ xưa đến nay, người Việt đều mong muốn có con trai. Các gia đình hầu hết đều bị ảnh hưởng của tư tưởng tiêu cực từ Nho giáo đó là: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", có nghĩa là một con trai mới gọi là có con, có 10 cô con gái sẽ gọi là không có con. Bên cạnh đó tư tưởng "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại", tức là có 3 loại bất hiếu nhưng không có con trai nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất. Chính vì vậy tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại hàng nghìn năm và đến nay nó vẫn ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp trong xã hội hiện đại.

Với tình trạng hiện nay tại Việt Nam, tình trạng mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cấu trúc dân số Việt Nam trong tương lai, dẫn tới việc dư thừa nam giới trong xã hội. Nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời, dự báo đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiếu từ 2,3 đến 4,3 triệu phụ nữ. Bên cạnh đó, mất cân bằng tỉ số giới tính khi sinh có thể gây ra các hậu quả nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và ảnh hưởng tới cuộc sống của phụ nữ, nam giới, gia đình và cộng đồng; làm tăng tệ nạn mại dâm, HIV/AIDS, nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái và các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trẻ em gái, bất bình đẳng, ly hôn; bất ổn xã hội...

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Đại học Kinh tế quốc dân thì nước ta đang đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh càng trầm trọng. Để giải quyết thực trạng này đầu tiên là phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để thay đổi nhận thức của người dân về giới tính. Tiếp đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, hương ước quy ước, khẩn trương xây dựng Luật Dân số thay thế Pháp lệnh Dân số đã ban hành được 16 năm. Mặt khác, khi xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội cần chú trọng khía cạnh giới và phải có chính sách an sinh xã hội tốt hơn cho người cao tuổi, đặc biệt là tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật đối với những người vi phạm trong lĩnh vực dân số như việc lựa chọn giới tính thai nhi. Thực tế cho thấy, hầu hết phụ nữ mang thai biết giới tính thai nhi trước khi sinh, nhưng rất ít địa phương xử phạt theo Nghị định số 114/2006/NĐ-CP và Nghị định số 176/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực Y tế, Dân số và Trẻ em.

Thêm một một giải pháp then chốt nhằm ngăn chặn tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh là phải tăng cường công tác bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi nhận thức của người dân, phát huy hơn nữa sự tham gia của nam giới vì bình đẳng giới. Cần có những hành động thiết thực bảo vệ trẻ em để các em sinh ra được bình đẳng, dù là trai hay gái. Nếu không có những biện pháp can thiệp kịp thời, dự tính đến năm 2050, Việt Nam sẽ phải đối mặt với một viễn cảnh dư thừa từ 2,3 đến 4,3 triệu nam giới không tìm được vợ để kết hôn.