Hướng dẫn dự phòng tiểu đường thai kỳ năm 2024
Kiểm soát kém bệnh đái tháo đường có từ trước hoặc đái tháo đường thai kỳ trong quá trình phát triển các cơ quan ở thai nhi (tới khoảng 10 tuần tuổi thai) làm tăng nguy cơ sau:
Kiểm soát bệnh tiểu đường kém trong thời gian mang thai cuối làm tăng nguy cơ sau: Tuy nhiên, bệnh tiểu đường thai kỳ có thể dẫn đến cân nặng lớn bất thường của thai ngay cả khi mức đường huyết được giữ gần như bình thường.
Hầu hết các chuyên gia khuyến cáo tất cả phụ nữ mang thai cần được . Nghiệm pháp dung nạp đường thường được khuyến cáo thực hiện, nhưng chẩn đoán có thể được đưa ra dựa trên nồng độ đường huyết lúc đói \> 126 mg/dL (> 6,9 mmol/L) hoặc nồng độ glucose huyết tương ngẫu nhiên \> 200 mg/dL (> 11 mmol/L). Hầu hết các tổ chức bên ngoài Hoa Kỳ đề xuất một bài kiểm tra đơn bước, 2 giờ.
Tư vấn trước thụ thai và kiểm soát tiểu đường một cách tối ưu trước, trong và sau khi mang thai để giảm thiểu nguy cơ cho sản phụ và thai nhi, bao gồm dị tật bẩm sinh. Do dị tật có thể phát triển trước khi biết có thai, cần phải kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ mức glucose đối với phụ nữ bị tiểu đường và những phụ nữ đang cân nhắc việc mang thai (hoặc những người không sử dụng biện pháp tránh thai). Để giảm thiểu nguy cơ, bác sĩ lâm sàng nên làm tất cả những điều sau đây:
Ở các trung tâm sinh sản vùng thì cần có sẵn các chuyên gia về quản lý các biến chứng tiểu đường. Phụ nữ bị tiểu đường typ 1 hoặc 2 nên theo dõi mức đường máu ở nhà. Trong thời kỳ mang thai, nồng độ đường huyết lúc đói bình thường khoảng 76 mg/dL (4,2 mmol/L). Mục tiêu điều trị là
Insulin là loại thuốc truyền thống được lựa chọn vì nó không thể đi qua nhau thai và kiểm soát đường huyết tốt hơn; nó được sử dụng cho bệnh đái đường tuýp 1 và 2 và đối với một số phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ. Insulin người nên được sử dụng nếu có thể vì nó giảm thiểu sự hình thành kháng thể. Các kháng thể Insulin đi qua nhau thai, nhưng tác dụng của chúng lên bào thai vẫn chưa được biết. Ở một số phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường týp 1 đã lâu, hạ đường huyết không gây ra việc tiết bình thường các hormone điều chỉnh ngược (catecholamine, glucagon, cortisol và hormone tăng trưởng); do đó, quá nhiều insulin có thể gây ra tình trạng hôn mê hạ đường huyết mà không có các triệu chứng tiền triệu. Tất cả phụ nữ mang thai thuộc typ 1 đều nên dùng kít glucagon và được hướng dẫn (cũng như các thành viên trong gia đình) dùng glucagon nếu xảy ra hạ đường huyết trầm trọng (biểu hiện bởi vô thức, nhầm lẫn, hoặc mức đường trong máu < 40 mg/dL [< 2,2 mmol/L]). Thuốc hạ đường huyết dạng uống (ví dụ glyburide) ngày càng được sử dụng để điều trị bệnh đái tháo đường ở phụ nữ có thai vì dễ dùng (so với tiêm), chi phí thấp và liều duy nhất hàng ngày. Một số nghiên cứu cho thấy glyburide an toàn trong thai kỳ và nó cung cấp sự kiểm soát tương đương với insulin cho phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ. Đối với phụ nữ bị tiểu đường tuýp 2 trước khi mang thai, không có nhiều dữ liệu về việc sử dụng thuốc trong thai kỳ; insulin thường được lựa chọn. Thuốc hạ đường huyết dạng uống trong thời kỳ mang thai có thể tiếp tục dùng sau khi sinh, khi cho con bú, nhưng trẻ sơ sinh cần được theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu hạ đường huyết. Mặc dù bệnh võng mạc tiểu đường, bệnh thận, và bệnh lý thần kinh nhẹ không chống chỉ định để mang thai nhưng họ cần được tư vấn trước khi mang thai và quản lý chặt chẽ trước và trong khi mang thai. Bệnh lý võng mạc cần được khám nhãn khoa mỗi tam cá nguyệt. Nếu bệnh võng mạc tăng sinh được ghi nhận trong lần khám thai đầu tiên, nên sử dụng phương pháp quang đông càng sớm càng tốt để ngăn ngừa sự suy giảm tiến triển. Bệnh thận, đặc biệt ở phụ nữ ghép thận, việc có thai dẫn đến cao huyết áp do thai nghén. Nguy cơ sinh non cao hơn nếu chức năng thận của người mẹ bị suy giảm hoặc nếu mới được ghép thận. Tiên lượng là tốt nhất nếu sinh con ≥ 2 năm sau khi cấy ghép. Một số biện pháp cẩn thận là cần thiết để đảm bảo kết quả tối ưu.
Hình thức sinh thường là sinh tự phát đường âm đạo đúng tháng. Nguy cơ thai chết và mắc vai tăng khi gần đến ngày sinh. Do đó, nếu chuyển dạ không bắt đầu tự phát lúc 39 tuần thì cần phải có can thiệp gây chuyển dạ; cũng có thể gây đẻ trong khoảng từ 37 đến 39 tuần mà không cần chọc ối nếu việc tuân thủ điều trị kém hoặc kiểm soát đường máu kém. Rối loạn chức năng chuyển dạ, bất tương xứng thai và khung chậu, hoặc nguy cơ sinh khó do mắc vai có thể làm cho việc mổ lấy thai là cần thiết. Mức đường huyết được kiểm soát tốt nhất trong khi chuyển dạ và sinh nở bằng cách truyền insulin liên tục liều thấp. Nếu có kế hoạch gây chuyển dạ, thai phụ dùng chế độ ăn bình thường của mình một ngày trước sinh và sử dụng liều insulin thường ngày. Vào buổi sáng ngày dự định khởi phát chuyển dạ, ăn sáng và insulin đều chưa dùng vội,đo đường máu nhanh, truyền tĩnh mạch 5% dextrose trong dung dịch muối 0,45% bắt đầu ở 125 mL/giờ, sử dụng bơm tiêm truyền. Ban đầu insulin với tốc độ truyền được xác định bởi mức độ glucose mao mạch. Liều Insulin được xác định như sau:
Đối với chuyển dạ tự nhiên, quy trình là tương tự, ngoại trừ nếu insulin tác dụng trung bình đã được sử dụng trong 12 giờ trước đó thì cần giảm liều insulin. Đối với phụ nữ bị sốt, nhiễm trùng, hoặc các biến chứng khác và đối với phụ nữ béo phì có tiểu đường typep 2 và cần \> 100 đơn vị insulin/ngày trước khi mang thai, cần tăng liều insulin. Sau khi sinh, mất đi rau thai, nơi tổng hợp một lượng lớn insulin hormone đối kháng trong suốt thai kỳ, ngay lập tức làm giảm nhu cầu insulin. Vì vậy, phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ và nhiều người tiểu đường type 2 không cần insulin sau sinh. Đối với phụ nữ có tiểu đường type 1, nhu cầu insulin giảm mạnh nhưng sau đó tăng dần sau khoảng 72 giờ. Trong 6 tuần đầu sau khi sinh, mục tiêu là kiểm soát glucose chặt chẽ. Mức glucose được kiểm tra trước bữa ăn và vào giờ ngủ. Không có chống chỉ định để nuôi con bằng sữa mẹ nhưng có thể dẫn đến tình trạng hạ đường huyết sơ sinh nếu uống thuốc hạ đường huyết. Phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ nên được thử nghiệm dung nạp glucose đường uống 2 giờ với 75 g glucose từ 6 đến 12 tuần sau sinh để xác định xem bệnh tiểu đường có được giải quyết hay không.
Cần có sự tham gia của nhóm điều trị tiểu đường nếu có thể, và giữ nồng độ glucose trong máu ở mức < 95 mg/dL (< 5,3 mmol/L) và 2h sau ăn ở mức ≤ 120 mg/dL (≤ 6,6 mmol/L). |