Mối quan hệ 2 chiều giữa tỷ giá hối đoái và xuất khẩu hàng hóa

Thông qua những ảnh hưởng lên cung cầu ngoại tệ mà cán cân thương mại tác động đến tỷ giá. Những tác động của tỷ giá cũng có ảnh hưởng không nhỏ lên cán cân thương mại. Vậy mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại là như thế nào?

Để có thể hiểu biết rõ ràng về mối quan hệ và sự tác động của cán cân thương mại lên tỷ giá hối đoái thì trước tiên chúng ta tìm hiểu về định nghĩa của cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái.

Tìm hiểu về tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại

Cán cân thương mại được hiểu là một mục nằm trong tài khoản vãng lai của của cán cân thương mại quốc tế. Trong đó cán cân thương mại sẽ ghi lại những thay đổi về quá trình xuất nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, có thể theo quý hoặc theo năm…

Tỷ giá hối đoái hiểu nôm na nó là giá cả đồng tiền của một quốc gia. Nó sẽ là tỷ giá mà đồng tiền của quốc gia này trao đổi với tỷ giá của một đồng tiền của quốc gia khác… Ví dụ như 1 đô la Mỹ được tính bằng 23 232.6 VND. Như vậy nếu một người muốn đổi đô la Mỹ lấy tiền Việt thì họ sẽ có được 23 232.6 VND cho 1 đô la.

Trong sự phát triển kinh tế của mỗi nước thì 2 yếu tố này rất quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương. Cán cân thương mại sẽ tác động trực tiếp và gây ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.

Xem thêm: Tỷ giá ngoại tệ được xác định như thế nào?

Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại

Mối quan hệ tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại

Tác động của cán cân thương mại lên tỷ giá hối đoái

Trong quá trình xuất nhập khẩu nếu như một quốc gia có xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu thì rõ ràng thấy được rằng nhu cầu của nước này đang tăng cao và nhu cầu về tiền của họ cũng ở mức cao. Và khi cung cao thì đồng nghĩa với việc đồng tiền tăng giá. 

Nói cách khác là nếu như một đất nước có lượng nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu thì nhu cầu về tiền của nước này thấp và đồng tiền sẽ giảm giá trị so với giá trị bình thường của chúng.

Để hiểu rõ hơn chúng tôi sẽ đưa ra một ví dụ: Nếu như nước ta nhập khẩu nhiều giấy ăn từ Mỹ, nước ta có nhu cầu sử dụng nhiều giấy ăn với số lượng lớn, mà sản phẩm giấy ăn tốt lại chỉ có thể nhập khẩu từ Mỹ thì đương nhiên đồng đô la sẽ tăng giá ở Việt Nam bởi nhu cầu của người Việt đối với hàng Mỹ là cao nhưng người Mỹ lại không có nhu cầu cao các mặt hàng của Việt Nam giống như vậy. Từ đó dẫn đến việc nhập tăng xuất giảm và đồng tiền Việt sẽ giảm giá trị.

Khi tỷ giá hối đoái giảm sẽ lại ảnh hưởng đến sự phát triển của cán cân thương mại. Tức là khi mà đồng tiền của nước này tăng nghĩa là các mặt hàng của họ đắt hơn, người ta sẽ mất nhiều tiền hơn để mua mặt hàng đó. Vì đắt nên sẽ mua ít hơn và ngược lại nếu đồng tiền giảm tức là mặt hàng rẻ mà khi rẻ người ta sẽ mua nhiều từ đó dẫn đến cán cân thương mại của các nước cân bằng hơn.

Ví dụ: Khi mà Nhật Bản cần nhiều thịt lợn, Việt Nam xuất sang Nhật nhiều hơn nhập thì đồng Việt Nam sẽ tăng và đồng Nhật sẽ giảm, nhưng khi tiền Nhật giảm thì người ta sẽ phải bỏ ra nhiều tiền Nhật hơn để mua thịt lợn của Việt Nam, từ đó giá thành cao lên và họ bắt đầu giảm nhu cầu của mình xuống. Và khi mà tiền Nhật giảm thì tiền Việt mua đồ Nhật sẽ rẻ hơn và mua được nhiều đồ hơn. Do vậy Nhật lại đẩy mạnh xuất khẩu và làm cho cán cân thương mại của Nhật trở nên cân bằng. tỷ giá tiền Nhật lại tăng lên.

Tuy nhiên điều này chỉ xảy ra đối với các quốc gia để tỷ giá hối đoái thả nổi. Mà hiện nay đa phần các quốc gia đều sử dụng chế độ thả nổi cho tỷ giá để giúp cân bằng cán cân thương mại.

 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại

Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại

Tỷ giá hối đoái thực:

  • Tỷ giá thực song phương [gọi tắt là tỷ giá thực] bằng tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước và nước ngoài, do đó nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
  • Tỷ giá thực đa phương REER i của một nước phụ thuộc vào tỷ giá danh nghĩa đa phương [nghĩa là phụ thuộc vào tỷ trọng của các đồng ngoại tệ trong rổ tiền tệ quốc gia, tỷ giá danh nghĩa song phương của các đồng tiền ngoại tệ trong rổ] và chỉ số giá tiêu dùng [CPI], tổng sản phẩm quốc nội [GDP] của các quốc gia có đồng tiền trong rổ ngoại tệ nước đó.

Tỷ giá thực lớn hơn 1 thì giá trị thực của đồng ngoại tệ tăng giá thực so với giá trị đồng nội tệ.

Như vậy có thể thấy được rằng tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại có sự tác động qua lại lẫn nhau vô cùng mật thiết. Do vậy khi có ý định đầu tư hay phát triển kinh doanh các nhà lãnh đạo cần chú ý và nắm rõ biến động của hai thông số này nhé!

Theo thị trường tài chính Việt Nam

Bài viết có hữu ích không?

Không

61

TẠP CHÍ KHOA HỌC, ĐẠI HỌC HUẾ, Số 43, 2007

MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN

THƯƠNG MẠI VIỆT NAM THỜI KỲ 1995 - 2004

Phan Thanh Hoàn, Nguyễn Đăng Hào

Trường Đại học Kinh tế,Đại học Huế

Thực tiễn cho thấy, sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan hệ mật thiết với kết

quả của nền kinh tế vĩ mô. Đây là một biến số quan trọng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh

của hàng hoá ngoại thương những biến số khác trong nền kinh tế. Sự thay đổi trong

cán cân thương mại do biến động của tỷ giá một vấn đề quan trọng và cơ bản trong

chính sách kinh tế mô. Có hai lý do cho vấn đề này đó là: [i] những nhà hoạch định

chính sách thường quan tâm đến việc mức độ nào thì cán cân thương mại tối ưu

cho một nước; [ii] sự biến động của cán cân thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến thu

nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy, nghiên cứu tác động của tỷ giá hối đoái đến cán

cân thương mại giúp cho việc hoạch định mục tiêu của thu nhập quốc dân. Đối với Việt

Nam, việc nghiên cứuthảo luận về chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian qua

một vấn đề nhạy cảm, không những vì chính bản thân tầm quan trọng của nó mà còn vì

ảnh hưởng lớn lao của đến nền kinh tế. Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt

Nam tăng trưởng khá ấn tượng, tuy vậy cán cân thương mại của Việt Nam luôn thâm

hụt. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là quan hệ giữa chính sách tỷ giá với ngoại thương

như thế nào? Liệu chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã hỗ trợ cho hoạt động xuất

khẩu? Kết quả trả lời những câu hỏi trên sẽ là căn cứ cho việc hoạch định chính sách tỷ

giá nhằm đạt được một chính sách ngoại thương hợp lý, phục vụ tăng trưởng kinh tế

trong bối cảnh toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc của Việt

Nam trong thời gian tới.

Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng lý thuyết Đồng liên kết [Cointegration

theory] và chế hiệu chỉnh sai số [ECM – Error Correction Model] nhằm kiểm định

các hiệu ứng ngắn hạn và dài hạn của tác động của tỷ giá đến cán cân thương mại nhằm

xác định hình của mối quan hệ giữa hai nhân tố này. Lý thuyết Đồng liên kết được

phát triển bởi Granger [1981] hoàn thiện bởi Engle Granger [1987]. thuyết

này, tđó, được áp dụng phổ biến trong phân tích quan hệ giữa các biến số kinh tế

dãy số thời gian.

I. Cơ sở lý thuyết

1.1. Phương trình quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại

Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại là mối quan tâm nghiên cứu

của nhiều nhà kinh tế học từ trước đến nay. Nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã chỉ ra

62

rằng: Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại thay đổi qua thời gian, và

có thể chia thành hai loại đó là quan hệ trong ngắn hạn và quan hệ trong dài hạn. Trước

tiên, một sự giảm gcủa nội tệ so với ngoại tệ, tức tỷ giá tăng, sẽ ảnh hưởng trực

tiếp ngay lên giá cả nhập khẩu. Trong khi đó, giá cả xuất khẩu chưa chịu sự tác động

này. Kết quả là cán cân thương mại, được đo bằng hiệu số giữa kim ngạch xuất khẩu và

nhập khẩu sẽ suy giảm. Tuy nhiên, qua thời gian, lượng nhập khẩu sẽ giảm do giá cả

nhập khẩu tăng. Đồng thời, giá cả hàng hoá xuất khẩu tính bằng ngoại tệ sẽ giảm, làm

tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dẫn đến lượng xuất khẩu tăng. Như vậy,

theo thời gian [trong dài hạn], cán cân thương mại sẽ chuyển biến theo chiều hướng tích

cực [thặng dư]1.

Để kiểm định mối quan hệ giữa hai biến số này, cán cân thương mại được biểu thị

là một hàm số của tỷ giá hối đoái thực đa phương. Cụ thể, ta có phương trình sau:

ttt uqB ]ln[]ln[ 10

Trong đó: Bt là tỷ số thương mại; ln biểu thị logarit tự nhiên u là độ nhiễu.

đây, cán cân thương mại được biểu thị bằng tỷ số thương mại giữa kim ngạch xuất khấu

và kim ngạch nhập khẩu. do chính của việc sử dụng này là thể dùng logarit của

biến tsố thương mại này trong các hình kiểm định. Đây phương trình quan hệ

được sử dụng trong nghiên cứu này nhằm xác định mối quan hệ giữa cán cân thương

mại và tỷ giá hối đoái.

1.2. Mô hình định lượng

Với mô hình biểu thị mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại đã

xác định trên [biểu thức 3], chúng tôi áp dụng phương pháp phân tích mối quan hệ

này bằng lý thuyết Đồng liên kết [Cointegration theory] mô hình chế hiệu chỉnh

sai số [ECM – Error Correction Model].

Phân tích biến động dài hạn – Mô hình Đồng liên kết

Trong nghiên cứu kinh tế, chúng ta thường giả lập hình đó các biến số

kinh tế quan hệ với nhau và thường được mô tả dưới dạng các cân bằng, chẳng hạn

như:

ttt uxy 10

Trong đó: ytxt các biến chuỗi, tham số ước lượng,và ut sai số. Điều

đáng quan tâm ở đây là nếu phương trình cân bằng trên là tồn tại thì đặc tính của sai số

cân bằng ut sẽ là như thế nào. Một đặc trưng quan trọng của ut sẽ là một biến chuỗi có

giá trị trung bình nhỏ và không có xu hướng lớn dần hay nhỏ dần theo thời gian. Vì vậy,

nếu biến chuỗi sai số này là biến ngẫu nhiên thì giá trị trung bình ước tính sẽ bằng 0

cùng phương sai. Một biến chuỗi sai số với đặc tính này được gọi là biến chuỗi tĩnh

[Stationary Time Series]. Biến chuỗi tĩnh khái niệm bản quan trọng trong

thuyết Đồng liên kết. Vì thế, trong khi ước lượng các tham số hoặc kiểm định giả thiết

1 Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and Policy, 5th Edition, Addison-

Wesley Publishing Company, p. 466-468.

63

của các hình, nếu không kiểm định thuộc tính này của biến chuỗi tcác kỹ thuật

phân tích thông thường [chẳng hạn như kỹ thuật OLS] sẽ không còn chính xác hợp

lý. Do đó, nếu sử dụng phương pháp phân tích hồi quy tương quan như trên sẽ dẫn đến

tương quan giả[Granger Newbold, 1974]2. Kết quả của loại hồi quy này sẽ dẫn

đến các kiểm định thống kê như t, F, R2 sẽ bị lệch. Nói một cách khác, hồi quy lệch sẽ

cho kết quả các kiểm định thống t R2 rất tốt nhưng hình thể hoàn toàn

không có ý nghĩa. vậy, trước khi xây dựng phân tích hình, cần phải kiểm

định thuộc tính tĩnh của các biến chuỗi trước khi đưa vào sử dụng.

Hai biến chuỗi yt xt được coi đồng liên kết [cointegrated] nếu tồn tại một

tham số để:

ttt xyu

cũng là một biến chuỗi tĩnh [stationary variable].

Dựa vào lý thuyết về Đồng liên kết như trên, chúng ta có phương pháp kiểm định

và phân tích mô hình sử dụng như sau:

[i] Kiểm tra thuộc tính biến tĩnh của dữ liệu;

[ii] Nếu các biến sử dụng là biến tĩnh liên kết cùng bậc thì tiến hành phương pháp

hồi quy với phương trình: ttt uqB ]ln[]ln[ 10

[iii] Kiểm tra thuộc tính tĩnh của phần dư [residual] từ kết quả hồi quy trên. Nếu

phần một biến chuỗi tĩnh thì hai biến số trong hình đồng liên kết. Từ đó

phân tích kết quả mô hình.

Phân tích biến động ngắn hạn – Mô hình ECM [ Cơ chế hiệu chỉnh sai số]

Để tính toán mức độ tác động của tỷ giá thực đến hoạt động thương mại, phần lớn

các nghiên cứu quốc tế sử dụng khái niệm hệ số co giãn thương mại hay cụ thể hơn

hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu. Các hệ số này được đo bằng tỷ lệ giữa sự thay

đổi phần trăm của xuất khẩu hay nhập khẩu với sự thay đổi phần trăm của tỷ giá thực.

Mô hình ECM - chế điều chỉnh sai số [Error-Correction Mechanism] được sử dụng

rộng rãi trong các nghiên cứu quốc tế để ước lượng các hệ số co giãn trên.

Hệ số 1 là các kết quả ban đầu của hệ số co giãn dài hạn tỷ số thương mại của tỷ

giá thực đa phương [từ hình đồng liên kết]. Bước tiếp theo ước lượng phương

trình động, trong đó có các hiệu số khác biệt thứ nhất [first difference] của biến độc lập

và sai số trễ [lag residuals] từ phương trình đầu tiên được gọi là “biến điều chỉnh sai số”

[error-correction term]. Cụ thể, mô hình ECM được sử dụng trong nghiên cứu này là mô

hình kinh tế lượng chuẩn tắc có dạng sau:

tttt uqB 110 ]ln[]ln[



Trong đó 1 là hệ số co giãn xuất khẩu ngắn hạn của tỷ giá thực đa phương,

hệ số của biến điều chỉnh sai số chỉ tốc độ mà hệ thống tiếp cận đến trạng thái cân bằng

dài hạn. Cụ thể, mức độ trễ trung bình của quá trình điều chỉnh đến trạng thái cân bằng

2 Jack Johnston, John Dinardo [2003], Econometric Methods, Fourth Editions, McGRAW - HILL

International Editions

64

dài hạn là -1/. Điều này có nghĩa giá trị tuyệt đối của càng lớn thì quá trình điều

chỉnh diễn ra càng nhanh.

Nghiên cứu về tác động của tỷ giá thực lên xuất khẩu của Việt Nam, Lord [2002]

đã sử dụng mô hình ECM để tính hệ số co giãn xuất khẩu mặt hàng giày dép của tỷ giá

thực trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả hồi quy của nghiên cứu này cho thấy tác động

của tỷ giá thực lên xuất khẩu giày dép có ý nghĩa về mặt thống kê trên thị trường toàn

cầu và trên một số thị trường khu vực. Hệ số co giãn xuất khẩu giày dép của tỷ giá thực

trên thị trường toàn cầu là 1,8 trong ngắn hạn và 2,0 trong dài hạn. Trong ngắn hạn hệ

số này là 0,1 đối với thị trường ASEAN-5 và 0,3 đối với thị trường Mỹ. Trong dài hạn

hệ số này là 0,4 đối với thị trường Mỹ và 1,9 đối với thị trường EU3.

Lord còn cho rằng chỉ số đo lường mức cạnh tranh thích hợp hơn cho từng thị

trường tgiá thực so sánh [cross-rates] giữa Việt Nam các đối tác thương mại

quan trọng. Sử dụng chỉ số tỷ gthực so sánh tác giả chỉ ra rằng tính cạnh tranh của

Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên trên thị trường Trung Quốc, Mỹ, trong khi

lại giảm xuống trên những thị trường khác như ASEAN, Nhật Bản EU. Việc giảm

tính cạnh tranh trên thị trường EU được giải thích là do đồng đô la lên giá so với đồng

euro và mối liên quan chặt chẽ giữa đồng Việt Nam và đô la.

hình ECM được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu quốc tế được nhìn

nhận một phương pháp thích hợp để lượng hóa tác động trong ngắn hạn dài hạn

của tỷ giá thực lên khối lượng xuất khẩu của nhiều nước, ví dụ trong các nghiên cứu của

Bayoumi [1996], Wren-Lewis [1998], Lord [2002].... Tuy nhiên, hiện nay ngoài nghiên

cứu của Lord [2002] trong lĩnh vực xuất khẩu giày dép vẫn chưa có một nghiên cứu nào

sử dụng phương pháp trên để đánh giá tác động đối với toàn bộ xuất khẩu và nhập khẩu

của Việt Nam. Do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi đã áp dụng phương pháp trên với

dãy số liệu theo quý từ năm 1995 đến năm 2005. Việc sử dụng số liệu theo quý cho

phép có một chuỗi số liệu tương đối lớn để có thể đưa ra những kết quả có độ tin cậy về

mặt thống kê. Tại Việt Nam, ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt chẽ biến động của t

giá, nên dao động ngắn hạn của tỷ glà rất nhỏ không gây tác động đáng kể đến xuất

khẩu. Do đó, chúng tôi chỉ đề cập đến tác động của những thay đổi mang tính dài hạn

hơn của tỷ giá lên xuất, nhập khẩu, cụ thể ở đây là những thay đổi theo quý.

II. Kết quả

Để sử dụng hình định lượng, chúng tôi tính toán hai biến số này với số liệu

quý lấy từ nguồn số liệu của Thống tài chính quốc tế [IFS]. Thời kỳ nghiên cứu

đây là từ Quý 1 năm 1995 đến Quý 4 năm 2005 Quý 1-1995 là kỳ gốc để xác lập tỷ

giá thực đa phương. Các đối tác thương mại lớn có mặt trong tính toán tỷ giá gồm:

Singapore, Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Úc và Đức.

Ngoài ra, để kiểm tra tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tkhu vực năm

3 Nguyễn Văn Tiến [2003], Tỷ giá thực và tác động của nó đến cán cân thương mại, Tạp chí nghiên cứu

Kinh tế, số 12

65

1997 đối với hai biến số phân tích nêu trên, chúng tôi sử dụng biến giả [dummy] DU99

với giá trị = 1 các quý năm 1999, thời gian còn lại biến giả có giá trị bằng 0. do

của việc lựa chọn mốc thời gian cho biến giả này là sau khủng hoảng tài chính tiền tệ,

năm 1999 các nước trong khu vực đã điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái của nước mình cho

phù hợp với điều kiện mới.

Các bước phân tích mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại được thực hiện

như sau: quan sát biểu đồ, chạy mô hình hồi quy đồng liên kết, hồi quy hiệu chỉnh sai số

và kết luận.

Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa, thực tế song phương và đa phương của

Việt Nam thời kỳ 1995 - 2004

Năm Tỷ giá danh

nghĩa1

Tỷ giá thực

tế2

NEER3 REER4 Tỷ số thương

mại5

1990 8.125 13.898 100,00 100,00 87,35

1991 11.500 18.187 143,44 140,69 89,26

1992 10.565 15.505 129,28 122,20 101,53

1993 10.842 14.894 131,45 120,27 76,07

1994 11.051 14.069 139,13 123,33 69,58

1995 11.015 12.435 141,75 114,40 66,82

1996 11.149 12.198 143,97 112,88 65,11

1997 12.292 13.024 143,84 111,22 78,68

1998 13.890 13.326 161,64 118,24 81,21

1999 14.028 13.037 161,52 114,48 99,28

2000 14.514 14.514 161,15 116,49 92,42

2001 15.084 14.806 160,16 114,40 94,38

2002 15.403 14.718 171,94 122,79 86,35

2003 15.646 15.276 183,62 129,38 79,98

2004 15.777 15.172 191,48 129,48 82,42

Ghi chú: 1: Tỷ giá danh nghĩa USD/VND [Số VND=1USD]

2: Tỷ giá thực tế USD/VND [Số VND=1 USD]

3: Chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa đa phương [%, năm 1990=100]

4: Chỉ số tỷ giá hiệu lực thực tế đa phương [%, năm 1990=100]

5: Tỷ số xuất khẩu/nhập khẩu [%]

Nguồn: Niên giám thống kê 2004, Thống kê tài chính quốc tế - IFS [International

Financial Statistics], 2005, Ngân hàng thế giới, 2005, Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2004-2005.

Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống

lạm phát thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính

66

sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì

vậy, thời kỳ này tỷ giá hiệu lực thực tế đa phương [REER] đã giảm tới 11%.

Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích

cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố

định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của M

[nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt

Nam] và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD

có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá

cao hơn thực tế. Điều này đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu mà

biểu hiện ở tỷ số thương mại đã giảm từ 101,53% xuống còn 78,68%.

Biểu đồ 1: Tỷ giá hiệu lực đa phương và tỷ số thương mại của Việt Nam

với các bạn hàng chủ yếu thời kỳ 1995 - 2005

0.0

0.2

0.4

0.6

0.8

1.0

1.2

1.4

1.6

Q1 1995

Q3 1995

Q1 1996

Q3 1996

Q1 1997

Q3 1997

Q1 1998

Q3 1998

Q1 1999

Q3 1999

Q1 2000

Q3 2000

Q1 2001

Q3 2001

Q1 2002

Q3 2002

Q1 2003

Q3 2003

Q1 2004

Q3 2004

Q1 2005

Q3 2005

Tỷ số thương mại REER

Biểu đồ trên đây cho thấy biến động của tỷ giá hiệu lực đa phương và tỷ số thương

mại của Việt Nam với các bạn hàng chủ yếu thời kỳ 1995-2005. Nhìn chung, xu hướng

biến động của hai biến số này là tăng lên theo thời gian. một vài thời kỳ như 1995-

1996, 1997-1999, 1999-2001, khi tỷ ghiệu lực tăng hay giảm thì tsố thương mại

cũng biến động theo chiều hướng tương tự. Điều này chứng tỏ đã mối liên hệ nhất

định giữa tgiá thực với cán cân thương mại của Việt Nam trong thời gian qua,

nghĩa là sự xuống giá thực của đồng Việt Nam so với đồng tiền của các đối tác thương

mại chủ yếu đã làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trên các

thị trường đó, từ đó xuất khẩu gia tăng, làm tăng tỷ số thương mại; hay nói cách khác là

cải thiện cán cân thương mại.

67

Kết quả mô hình hồi quy đồng liên kết và cơ chế hiệu chỉnh sai số của các biến t

giá hiệu lực đa phương và cán cân thương mại như sau:

Bảng 2: Kiểm định nghiệm đơn vị các biến trong mô hình đồng liên kết

Biến số Kiểm định ADF [t statistics]

Ln[Tỷ số TM] -1.551

Ln[Chỉ số RER] 1.278

∆[Ln[Tỷ số TM]] -2.264*

∆[Ln[Chỉ số RER]] -2.611*

Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%

Bảng 3: Kết quả mô hình hồi quy đồng liên kết

Biến số Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định

Hằng số -0,370* -16,397

Ln[REER] 0,704* 6,592

DU99 0,0711 1,411

R-square: 0,525. F test: F[2,41] = 22,72 [0,000]. Durbin-Watson test = 2,063

Kiểm định nghiệm đơn vị ADF đối với phần dư từ hồi quy trên: t = -2.970*

Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%

Như vậy, hàm hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa Tỷ giá hiệu lực đa phương và Tỷ

số thương mại sẽ là:

Ln[Tỷ số TM] = -0,3706 + 0,7042 x Ln[REER]

Kết quả kiểm định phần [Residual] cho thấy hai biến số này đồng liên kết

bậc I. Các tham số kiểm định sự phù hợp của hình khẳng định hình có ý

nghĩa.

Bảng 4: Kết quả mô hình hiệu chỉnh sai số

Biến số Hệ số ước lượng Giá trị kiểm định Mức ý nghĩa

Hằng số 0,010 0,536 0,592

Ln[REER]

-0,157 -0,234 0,815

Ln[REER]

0,559 0,801 0,423

Ln[REER]

-0,673 -0,966 0,334

Ln[REER]

1,409* 2,199 0,027

Ln[REER]

-0,535 -0,901 0,367

[Sai số trễ]

-1,016 -6,432 0,000

R-square: 0,618, F test: F[6,32] = 8,65 [0,000], Durbin-Watson test = 2,126

Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê ở mức 5%

-1;-2... biểu thị mức độ trễ theo quý

68

Kết quả hình thể hiện ở các bảng trên cho thấy tỷ giá hối đoái cán cân

thương mại quan hệ với nhau trong dài hạn và ngắn hạn. Các tham số thống của

các mô hình đều chứng tỏ các mô hình là phù hợp và có ý nghĩa. Mô hình hồi quy đồng

liên kết chỉ mối liên kết giữa hai biến số phân tích. Hệ số ước lượng của tỷ giá

hiệu lực đa phương mang dấu dương [0,704] ý nghĩa thống kê, tức trong dài

hạn, một sự tăng lên của tgiá hiệu lực đa phương tác động tích cực đến cán n

thương mại đây chính tỷ số thương mại. Điều này hoàn toàn phù hợp với giả

thiết nghiên cứu ban đầu. Biến số DU99 không có ý nghĩa thống kê, điều đó có nghĩa là

sự biến động mạnh của các đồng tiền liên quan trong cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ

khu vực năm 1997 không tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam. Mối

quan hệ giữa hai nhân tố này trong dài hạn còn được khẳng định qua kết quả của

hình chế hiệu chỉnh sai số, cụ thể biến số [Sai số trễ]-1 ý nghĩa thống

mang dấu thích hợp. Tuy nhiên, mức độ giải thích của mô hình không cao, thể hiện ở hệ

số kiểm định độ phù hợp của hình là 0,525. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp bởi

trên thực tế, hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong thời kỳ này còn chịu tác động

bởi nhiều nhân tố khác.

Về mối quan hệ giữa hai biến số trong ngắn hạn, kết quả hình chế hiệu

chỉnh sai số cho thấy có mối quan hệ giữa chúng. Mức độ trễ trong tác động của tỷ g

hiệu lực đa phương đến cán cân thương mại là khá lớn, thể hiện ở biến số Ln[REER]-

3. Có nghĩa là, biến động của tỷ giá ở quý thứ 3 về trước sẽ có tác động đến hoạt động

xuất, nhập khẩu ở thời điểm hiện tại. Điều này phù hợp với lý thuyết thương mại cũng

như thực tế ngoại thương Việt Nam, cụ thể những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của

Việt Nam phần lớn là nông sản. Vì thế, đây là phản ứng trễ trong sản xuất đối với thay

đổi của tỷ giá hối đoái. Mặt khác nhập khẩu của Việt Nam chịu nhiều tác động của các

chính sách khác hơn là tỷ giá.

Kết quả nghiên cứu trên cũng với những nghiên cứu trước đây về vấn đề này một

lần nữa khẳng định tác động tích cực của việc tăng tỷ giá thực [đồng Việt Nam xuống

giá] đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Điều này cho thấy việc chủ động phá

giá nội ttrong những năm qua đã hiệu quả nhất định trong việc tăng cường xuất

khẩu. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu Việt Nam có nên phá giá đồng tiền trong thời gian tới

để thúc đẩy xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại hay không? Đây là một vấn

đề phức tạp bởi để thúc đẩy xuất khẩu đòi hỏi một hệ thống biện pháp khác nhau, không

đơn thuần là chính sách tỷ giá. Mặt khác, tỷ giá một biến sốrất nhạy cảm tác

động đến nhiều biến số vĩ mô khác như thương mại, n cân thanh toán, ngân sách

chính phủ, nợ nước ngoài... Do đó, việc xem xét chính sách tỷ giá phải được đặt trong

một tổng thể chính sách của Chính phủ. một số do cho thấy cần phải thận trọng

khi xem xét quyết định có nên phá giá hay không như sau:

Thứ nhất, trong mô hình cân bằng dài hạn [Cointegration Model] và mô hình biến

động ngắn hạn [ECM] giữa tỷ giá thực và cán cân thương mại của nghiên cứu này mới

69

đề cập đến tác động của tỷ giá thực lên xuất, nhập khẩu chứ chưa xem xét tác động đến

các biến số vĩ mô khác. Bên cạnh đó, việc phá giá đồng Việt Nam sẽ làm cho nhập khẩu

sẽ trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà sản xuất trong nước. Hiện tại, nhiều ngành kinh tế

của Việt Nam còn phụ thuộc nặng nề vào đầu vào nhập khẩu như nông nghiệp, dệt may,

công nghiệp hóa chất, điện tử... Do đó, phá giá sẽ đẩy chi phí sản xuất của những ngành

này lên caothể gây nên lạm phát do chi phí [cost-push] đối với toàn nền kinh tế. Từ

đó, giá cả hàng hoá xuất khẩu cũng gia tăng tính bằng nội tệ, dẫn đến hiệu ứng tích cực

của phá giá đối với xuất khẩu trở nên bằng không. Thứ hai, phá gsẽ làm nợ nước

ngoài của chính phủ những tổ chức kinh tế khác gia tăng tính theo đồng Việt Nam

khiến cho ngân sách Chính phủ thêm khó khăn, những doanh nghiệp vay ngoại tệ của

ngân hàng để tiến hành kinh doanh trên thị trường nội địa cũng sẽ bị thiệt hại do ngoại

tệ lên giá so với đồng Việt Nam. những do trên, cần phải tính toán rất cẩn thận

những lợi ích và chi phí của việc phá giá đồng Việt Nam trước khi ra những quyết định

quan trọng về vấn đề này.

III. Kết luận

Đề cập đến chính sách tgiá Việt Nam một vấn đề hết sức nhạy cảm, liên

quan đến hàng loạt các yếu tố cấu trúc kinh tế và cả các vấn đề chính trị, xã hội. Nhiều

nghiên cứu cho rằng, việc cần làm trước mắt là phá giá đồng Việt Nam để làm tăng tính

cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Quan điểm này còn cho rằng

đồng Việt Nam hiện nay có tỷ giá thực có hiệu lực [real effective exchange rate -

REER] cao, nghĩa là tỷ giá đã điều chỉnh theo lạm phát của một rổ tiền tệ của các nước

mà Việt Nam có quan hệ mậu dịch4.

Kết quả nghiên cứu này cho thấy, trong thời kỳ 1995 – 2004, tỷ giá hối đoái danh

nghĩa giữa đồng Việt Nam với các đồng tiền của các bạn hàng chủ yếu thể hiện xu

hướng tăng, đồng nghĩa với việc đồng Việt Nam mất giá. Tuy nhiên, dựa trên kết quả

tính toán được, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Trong giai đoạn 1992-

1997, việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát

đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ [nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng

chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ gcủa Việt Nam] các nước quan hệ

thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD xu hướng tăng giá tnăm

1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã

tạo ra và tích lũy những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển kinh tế.

Kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định được sự tồn tại của quan hệ giữa hai biến

số vĩ mô này trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, sự tác động của tỷ giá có tính

chất trễ, và trong dài hạn hai biến số này tiến tới một quan hệ cân bằng [đồng liên kết].

4 Trần Ngọc Thơ, Tiền đồng được định giá cao hay thấp?, Thời báo kinh tế Sài Gòn, số 30-2006 [814]

70

Từ những phân tích trên, khuyến nghị đối với việc hoạch định chính sách tỷ giá phục vụ

hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam là:

Thứ nhất, tỷ giá là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng nhanh và mạnh

đến trạng thái cán cân thương mại, chính vậy khi phân tích diễn biến xu hướng

vận động của cán cân thương mại, không thể không đề cập đến nhân tố tỷ giá. Tuy

nhiên, nếu căn cứ vào diễn biến của tỷ giá danh nghĩa [song phương hay đa phương] để

phân tích ảnh hưởng lên cán cân thương mại là không chuẩn xác, mà phải sử dụng đến

tỷ giá thực và chủ yếu là tỷ giá thực đa phương.

Thứ hai, để thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh hơn thì tgiá thực không thể

quá thấp như ở Việt Nam trong suốt thời gian qua. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá là để tỷ giá

thực đạt mức bao nhiêu là hợp lý.

Tóm lại, trong những nhân tố tác động đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam

trong thời gian qua, tỷ giá hối đoái có một vai trò hết sức quan trọng. Các nghiên cứu

trong và ngoài nước trong thời gian qua đã khẳng định mối quan hệ và tác động giữa tỷ

giá hối đoái và cán cân thương mại ở Việt Nam với các mức độ khác nhau. Nghiên cứu

này nhằm phân tích một cách sâu hơn mối quan hệ giữa hai biến số đó đã cho một

kết quả tương tự. Điều này góp phần làm vững chắc scho việc hoạch định chính

sách tỷ giá nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong thời gian

tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Jack Johnston, John Dinardo. Econometric Methods, Fourth Editions, McGRAW -

HILL International Editions [2003]

2. Kenichi Ohno. Exchange Rate Management of Vietnam, Re-examination of Policy

Goals and Modality, Research paper, The National Graduate Institute for Policy

Studies, Japan [2003]

3. Nguyễn Văn Tiến. Tỷ giá thực tác động của đến cán cân thương mại, Tạp chí

Nghiên cứu Kinh tế, số 12 [2003]

4. Paul R. Krugman, Maurice Obstfeld, International Economics: Theory and Policy, 5th

Edition, Addison-Wesley Publishing Company

5. Phan Thanh Hoàn. Tỷ giá với cán cân thương mại: Kinh nghiệm của Hàn Quốc. Luận

văn cao học, Đại học KyungHee, Hàn Quốc [2003]

6. Quỹ tiền tệ Quốc tế, Thống kê tài chính quốc tế - IFS [International Financial

Statistics] [2005]

7. Trần Ngọc Thơ, Tiền đồng được định giá cao hay thấp?, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số

30 [2006] 814

8. Viện Kinh tế học, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Quốc gia, Tạp chí Nghiên

cứu Kinh tế, các số 292,293, 299 [2003, 2004]

71

THE RELATIONSHIP BETWEEN EXCHANGE RATE AND TRADE

BALANCE OF VIETNAM IN THE PERIOD OF 1995-2004

Phan Thanh Hoan, Nguyen Dang Hao

College of Economics, Hue University

SUMMARY

This study presents an empirical assessment of the relationship between the exchange rate

and the balance of trade in Vietnam during the period of 1995-2004. Using cointegration

theory, this study tests the relationship between exchange rate and trade balance of Vietnam.

Specifically, the study test for the statistical significance, direction, and speed of the trade

balance response to the changes in exchange rate. The study also tests for short-run and long-

run effects to determine the pattern of the exchange rate and trade balance relationship in

general.

The result shows the theoretical framework of the study as well as major findings of

previous studies related to that. The statistical results provide evidence of the J-curve effect,

which indicates that the trade balance initially deteriorates in response to devaluations. More

specifically, the result shows the trade balance adjusts gradually to the exchange rate change,

requiring a period of about two quarters. In the long-run, we find that devaluation improves the

trade balance. Our results thus confirm the potency of the exchange rate as a long-run tool of

trade policy.

Video liên quan

Chủ Đề