Những nghiên cứu về dạy học trải nghiệm
CƠ sở lý LUẬN về CHỈ đạo HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM của PHÒNG GIÁO dục CHO TRƯỜNG TIỂU họcBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.72 KB, 56 trang ) CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỈ ĐẠO HOẠT với lao động sản xuất hay Chỉ có thể trở thành người cộngsản khi biết lao động và hoạt động xã hội cùng với công nhân và nông dân Theo nhà giáo dục người Nga N.K.Cơrupxkaia (1869 1939) "Qua hoạt động thực tiễn thế hệ trẻ được tự giáo dục, qua đó mà hình thành và phát triển nhân cách của người lao động mai sau". Quan điểm này đã thể hiện vai trò và ý nghĩa của lao động, hoạt động xã hội trong việc hình thành nhân cách của người học. Sang đầu thế kỷ 20 có nhiều tác giả nổi trên thế giới đã xây dựng các học thuyết trải nghiệm học tập (Experiential Learning Theory (ELT)), như: William James, John Dewey, Kurt Lewin, Jean Piaget, Lev Vygotsky, Carl ... những người đặt trải nghiệm là trung tâm của quá trình học tập, hình dung một hệ thống giáo dục với người học là trung tâm. ELT là một cái nhìn năng động của việc học dựa trên một chu trình học tập được thúc đẩy bởi sự giải quyết của các mặt là:hành động / sự phản chiếu và kinh nghiệm / trừu tượng. Đó là một 3 lý thuyết toàn diện xác định việc học là quá trình chính của sự thích ứng con người liên quan đến toàn thể con người. [6] Theo tác giả người Mỹ, John Dewey, với tác phẩm Kinh nghiệm và Giáo dục đã nêu ra hạn chế của giáo dục nhà trong trường và đưa ra cách nhìnvề vai trò của kinh nghiệm trong giáo dục. Với triết lí giáo dục coi trọng vai trò của kinh nghiệm. Dewey cũng cho rằng, những kinh nghiệm mang ý nghĩa giáo dục giúp thúc đẩy hiệu quả giáo dục bằng cách liên kết người học với những kiến thức được học với thực tiễn. [31] Năm 1984, David A. Kolb đưa ra mô hình học tập trải nghiệm. Theo đó, chu kì học tập của người học bao gồm bốn giai đoạn: trải nghiệm cụ thể; phản ánh qua quan sát; khái quát trừu tượng; thực hành chủ động. Dựa trên lí thuyết học tập trải nghiệm của D. Kolb, mô hình HĐTNST gồm 5 giai đoạn (hình 1): Trải nghiệm, khám phá: sẵn sàng cho trải nghiệm mới thông qua việc thực hiện những hoạt động/ tình huống cụ thể và thực tế. Người học tiến hành các hành động trên đối tượng (hoặc có thể đọc một số tài liệu, nghe giảng, xem video và 4 chủ đề đang học,). Tất cả các yếu tố đó sẽ tạo ra các kinh nghiệm nhất định cho người học (kinh nghiệm ở đây và bây giờ). Chúng trở thành nguyên liệu đầu vào quan trọng của quá trình học tập. Tuy vậy kinh nghiệm quan trọng nhất là những kinh nghiệm mà các giác quan có thể cảm nhận được. Như vậy sự trải nghiệm ở đây cho thấy chất lượng của nó phụ thuộc vào mức độ người học tham gia và hơn nữa đó phải xuất phát từ tình huống thực tế thì trải nghiệm đó mới đáng giá, mới có ý nghĩa và được lựa chọn để người học trải nghiệm và được xem như là tạo tình huống có vấn đề cho người học. Hoạt động suy ngẫm phân tích khái quát hóa kiến thức: xử lí những gì tìm được theo ý tưởng, quan điểm hay cung cách nào đó, chẳng hạn thành định lí, nguyên tắc, công thức, mô hình, qui tắc v.v, tức là phát triển những sự kiện thu được thành công cụ, sản phẩm. Hoạt động thực hành - áp dụng sáng tạo: đó là thử nghiệm sau khi nghiên cứu vừa để kiểm tra độ tin cậy của các hành động xử lí, vừa để học kĩ năng chuyên biệt ứng với tri thức đó và áp dụng trong tình huống mới theo hướng sáng tạo. 5 Hoạt động đánh giá: để rà soát lại toàn bộ quá trình và kết quả học tập yếu tố nội dung nhất định, có thông tin để điều chỉnh hay bổ sung hoạt động. Những hoạt động dạng này cũng có chức năng phát triển thái độ, xúc cảm, tình cảm và giá trị ở người học, vì từ bản chất, đánh giá gắn liền với giá trị và nhu cầu, lợi ích con người. Hoạt động đánh giá có thể lồng ghép vào các giai đoạn học tập. Figure 1 Vòng tròn học tập trải nghiêm sáng tạo (Kolb, 1984). Theo H Bergsteiner và cộng sự, 2010 Lý thuyết học tập kinh nghiệm của Kolb đã có ảnh hưởng rộng rãi trong giáo dục. Điều này là quan trọng bởi vì các mô hình có thể hỗ trợ sự vận dụng các tiến bộ của khoa học, cũng như việc phát triển và nghiên cứu lý thuyết đối với hoạt động dạy học. Áp dụng các tiêu chí phân loại và mô hình của Kolb cho thấy còn một số hạn chế trong việc tiến hành các hoạt động trải nghiệm. Từ đó đề xuất các hướng dẫn thực hiện mô hình mới nhằm khắc phục những điểm điểm hạn chế này, hướng dẫn việc nghiên cứu và phát triển lý thuyết trong tương lai và bắt đầu tích hợp các lĩnh vực học tập trải nghiệm khác nhau. [11] 6 Tóm lại, các học giả thế giới đều cho rằng hoạt động trải nghiệm giáo dục là rất quan trọng, học từ trải nghiệm phải liên kết kinh nghiệm của người học với hoạt động phản ánh và phân tích (Chapman, McPhee and Proudman, 1995); chỉ có kinh nghiệm thì chưa đủ để được gọi là trải nghiệm; chính quá trình phản ánh đã làm cho kinh nghiệm thành trải nghiệm giáo dục. -Nghiên cứu ở trong nước Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1945 thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, để xác định phương pháp giáo dục của nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Mình từng chỉ rõ: Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội!. Bác Hồ đã từng nói: Giáo dục phải theo hoàn cảnh và điều kiện" và "Một chương trình nhỏ mà được thực hành hẳn hoi còn hơn một trăm chương trình lớn mà không làm được (Hồ Chí Minh, toàn tập). Người đã đề ra nội dung giáo dục toàn diện đối với HS bao gồm: thể dục, trí dục, mỹ dục, đức dục và đưa ra quan điểm giáo dục thiếu nhi đó là: Trong quá trình giáo dục thiếu nhi phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng. Và trong lúc học, cũng cần làm cho chúng vui, 7 trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học. Bác yêu cầu: Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Trong đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đã đề cập: HĐTNnhằm góp phần tạo lên và phát triển cho HS những phẩm chất và năng lực chung, nhất là trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng, với đất nước, với nhân loại và với môi trường tự nhiên; tính tự tin,tự lập, tự chủ; các năng lực hợp tác, sáng tạo, giao tiếp và tự quản lý bản thân. HĐTNsẽ là môi trường để giúp HS trải nghiệm tất cả những gì được học từ các môn học, chủ đề hay lĩnh vực, giúp vận dụng kiến thức có được từ nhà trường vào thực tiễn cuộc sống và cũng thông qua đó, những năng lực gắn với cuộc sống được hình thành. Nói cách khác là đào tạo một lớp người mới tinh thông về nghề nghiệp, có khả năng thích ứng cao với những biến động của cuộc sống [3] Đã có nhiều nghiên cứu trong nước đề cập đến HĐTN nói chung và HĐTN trong nhà trường nói riêng như: Tác giả Đỗ Ngọc Thống, HĐTN - kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam 8 Tác giả Đặng Thị Kim Thoa HĐTN Góc nhìn từ lý thuyết học từ trải nghiệm và Mục tiêu năng lực, nội dung chương trình, cách đánh giá trong HĐTN. Tác giảđã chỉ ra để phát triển chương trình HĐTNST theo tiếp cận năng lực cần phải xác định và xây dựng được khung năng lực, từ đó thiết kế nội dung để đạt được mục tiêu đặt ra. Tác giả Lê Huy Hoàng, Một số vấn đề về HĐTN trong chương trình giáo dục phổ thông mới Tác giả Nguyễn Thị Thu Hoài, Tổ chức HĐTN theo tiếp cận năng lực sáng tạo giải pháp phát huy năng lực người học). Tác giả Bùi Ngọc Diệp Hình thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ thông đã gợi ý các hình thức tổ chức HĐTN có thể tổ chức được nhiều nhất, hiệu quả nhất đáp ứng nhu cầu và mục tiêu giáo dục trong bài. Ngoài ra còn có những nghiên cứu khác như: Thiết kế HĐTN gắn với dạy học phát triển năng lực cho HS của tác giả Đặng Văn Nghĩa và Chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực: vấn đề dạy học và tổ chức dạy học tác giả Trần Ngọc Giao, Đặng Thị Thanh Huyền, Nguyễn Thị 9 Mai Phương. Như vậy, HĐTN đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, song hầu hết các tác giả chưa phân tích cụ thể các biện pháp chỉ đạo HĐTN của phòng giáo dục ở trường tiểu học. Đề tài sẽ kế thừa những nghiên cứu về HĐTN cũng như các biện pháp quản lý GD để từ đó đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng chỉ đạo HĐTN phòng giáo dục ở trường tiểu học. -Những khái niệm cơ bản - Hoạt động giáo dục và hoạt động trải nghiệm - Hoạt động giáo dục Hoạt động Theo A.N.Leontiev hoạt động được hiểu là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục tiêu, thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là sự hiện thực hóa nhu cầu của chủ thể. Cách hiểu khác, hoạt động là mối liên hệ giữa khách thể và chủ thể, bao gồm quá trình khách thể hóa chủ thể (tức là chuyển năng lực của con người vào sản phẩm của hoạt động, sản phẩm của lao 10 động) và quá trình chủ thể hóa khách thể (nghĩa là trong quá trình đó con người phản ánh vật thể, phát hiện và tiếp thu đặc điểm của vật thể chuyển thành tâm lý, ý thức và năng lực của mình). Như vậy, các hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào khách thể, sự vật, tri thức (gọi chung lại là quá trình bên ngoài, trong đó có cả hành vi) và quá trình tinh thần, trí tuệ (gọi chung là quá trình bên trong). Rõ ràng là trong hoạt động bao gồm cả hành vi lẫn tâm lý, công việc chân tay lẫn công việc trí não [dẫn theo 34, tr.95,96]. Hoạt động là phương thức tồn tại tích cực của con người trong xã hội, hoạt động là nơi nảy sinh tâm lý và cũng là nơi tâm lý vận hành. Theo C. Mác: Hoạt động giúp con người sáng tạo ra lịch sử và trong quá trình đó sáng tạo ra chính bản thân mình. Hoạt động được xác định là cơ chế, là con đường để hình thành và phát triển năng lực, nhân cách, đạo đức của cá nhân trong đó hoạt động giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Hoạt động giáo dục Điều lệ trường Tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 11 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ GDĐT, tại Điều 29 đã chỉ rõ: Hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trên lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng khiếu, giúp đỡ học sinh yếu kém phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh Tiểu học. Hoạt động giáo dục trong lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học bắt buộc và tự chọn trong Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động ngoại khoá, hoạt động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lịch, giao lưu văn hoá; hoạt động bảo vệ môi trường; lao động công ích và các hoạt động xã hội khác. Theo nghĩa rộng: Hoạt động giáo dục là quá trình tác động có mục đích, kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của các nhà giáo dục tới HS nhằm giúp HS hình thành và phát triển toàn diện nhân cách. HĐGD này bao gồm: hoạt động dạy học và HĐGD theo nghĩa hẹp. HĐGD theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch, do nhà giáo dục định hướng, thiết kế, tổ chức trong và ngoài giờ học, trong và ngoài nhà 12 trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục theo nghĩa hẹp, hình thành ý thức, phẩm chất, giá trị sống, hay các năng lực tâm lý xã hội[34] Trong chương trình giáo dục phổ thông mới hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm dạy các môn họcmôn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo. - Hoạt động trải nghiệm Trải nghiệm Theo quan điểm của nhà triết học Nga - Solovyev V.S trải nghiệm là tri thức kinh nghiệm thực tế; là thể thống nhất bao gồm tri thức và kỹ năng. Trải nghiệm là kết quả của tác động qua lại giữa thế giới và con người, được truyền qua nhiều thế hệ. Dưới góc độ tâm lý học giáo dục, nhà tâm lý A. N. Leontiev nói về quá trình trải nghiệm của nhân loại: Trong cuộc đời mình, con người đã đồng hóa kinh nghiệm của nhân loại, kinh nghiệm của những thế hệ trước. Nó diễn ra dưới hình thức nắm vững kiến thức và ở mức độ làm chủ kiến thức [34]. 13 Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, "trải nghiệm theo nghĩa chung nhất là bất kì một trạng thái có màu sắc xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng với tri thức, ý thức) trong đời sống tâm lí của từng người. Theo nghĩa hẹp hơn, chuyên biệt hơn của tâm lí học, là những tín hiệu bên trong, nhờ đó nghĩa của các sự kiện đang diễn ra đối với cá nhân được ý thức, chuyển thành ý riêng của cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Sáng tạo là hoạt động tạo ra cái mới, có thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học (phát minh), nghệ thuật, sản xuất - kĩ thuật (sáng tác, sáng chế), kinh tế, chính trị [26]. Theo Từ điển Tiếng việt [Hoàng Phê (2003), trang 1020], "trải có nghĩa là đã từng qua, từng biết, từng chịu đựng; còn nghiệm có nghĩa là kinh qua thực tế nhận thấy điều nào đó là đúng. Sáng tạo là tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần; tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có". Hoạt động trải nghiệm 14 Hoạt động trải nghiệm được hầu hết các nước phát triển quan tâm, nhất là các nước tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển năng lực; chú ý giáo dục nhân văn, giáo dục sáng tạo, giáo dục phẩm chất và kĩ năng sống. Giáo dục của Singapore: Hội đồng nghệ thuật quốc gia có chương trình giáo dục nghệ thuật, cung cấp, tài trợ cho nhà trường phổ thông toàn bộ chương trình của các nhóm nghệ thuật, những kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật Giáo dục của Đức: Từ cấp Tiểu học đã nhấn mạnh đến vị trí của các kĩ năng cá biệt, trong đó có phát triển kĩ năng sáng tạo cho trẻ; phát triển khả năng học độc lập; tư duy phê phán và học từ kinh nghiệm của chính mình. Giáo dục của Nhật bản: Nuôi dưỡng cho trẻ năng lực ứng phó với sự thay đổi của xã hội, hình thành một cơ sở vững mạnh để khuyến khích trẻ sáng tạo. Giáo dục của Hàn Quốc: Mục tiêu HĐTN hướng đến con người được giáo dục, có sức khỏe, độc lập và sáng tạo. Cấp Tiểu học và cấp Trung học cơ sở nhấn mạnh cảm xúc và ý tưởng sáng tạo, cấp Trung học phổ thông phát triển công 15 dân toàn cầu có suy nghĩ sáng tạo. Như vậy, dựa theo các mô hình trên thế giới, thì HĐTN gồm 4 nhóm hoạt động chính: Hoạt động tự chủ (thích ứng, tự chủ, tổ chức sự kiện, sáng tạo độc lập...); Hoạt động câu lạc bộ (hội thanh niên, văn hóa nghệ thuật, thể thao, thực tập siêng năng...); Hoạt động tình nguyện (chia sẻ quan tâm tới hàng xóm láng giềng và những người xung quanh, bảo vệ môi trường); Hoạt động định hướng (tìm hiểu thông tin về hướng phát triển tương lai, tìm hiểu bản thân... Nhà trường có thể lựa chọn và tổ chức thực hiện một cách linh động sao cho phù hợp với đặc điểm của học sinh, cấp học, khối lớp, nhà trường và điều kiện xã hội của địa phương. Theo tác giả Lê Huy Hoàng: HĐTNST là hoạt động mang tính xã hội và thực tiễn đến với môi trường giáo dục trong nhà trường để HS chủ động tự trải nghiệm trong tập thể, từ đó hình thành và bộc lộ được phẩm chất, năng lực; nhận ra năng khiếu, sở thích, đam mê; thể hiện và điều chỉnh cá tính, giá trị; nhận ra chính mình cũng như phương hướng phát triển của bản thân; hỗ trợ cho và cùng với các hoạt động dạy học trong chương trình giáo dục thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo 16 dục 16. Tác giả Đinh Thị Kim Thoa sử dụng lí thuyết học từ trải nghiệm của Kolb (1984) để nghiên cứu về HĐTNST: HĐTNST là hoạt động giáo dục thông qua sự trải nghiệm thực tế và sáng tạo của cá nhân trong việc vận dụng kinh nghiệm học được trong nhà trường với đời sống thực tế, nhờ đó các kinh nghiệm được tích lũy thêm và dần chuyển hoá thành năng lực [24. Hoạt động trải nghiệm huy động sự tham gia, phối hợp, liên kết của nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: GV chủ nhiệm lớp, GV bộ môn, Cán bộ Đoàn, Tổng phụ trách Đội, Ban Giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân và đoàn thể trong xã hội. Hoạt động trải nghiệm trong chương trình giáo dục phổ thông được phân chia theo hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản và Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp [3] Từ những nghiên cứu trên, với mục đích nghiên cứu của mình, chúng tôi quan niệm: HĐTN trong dạy học là nhiệm vụ học tập gắn với thực tiễn được tổ chức theo các hình thức 17 đa dạng, linh hoạt trong đó HS được trải nghiệm đề xuất ý tưởng, thiết kế, tổ chức, đánh giá kết quả thực hiện, qua đó vừa lĩnh hội được nội dung học tập, vừa hình thành các kĩ năng sống, kĩ năng tư duy, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm để giải quyết một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo những vấn đề nhận thức và thực tiễn [19] -Phòng Giáo dục Đào tạo -. Khái niệm Theo Thông tư liên tịch Bộ GD&ĐT và Bộ Nội vụ số 11/2015/TTLT-BGDĐT-BNV NGÀY 29/5/2015, quy định tại Chương 2, Điều 6 như sau: 1/Phòng Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và theo quy định của pháp luật; 2/ Phòng Giáo dục và Đào tạo có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ 18 đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Giáo dục và Đào tạo. Cũng theo thông tư số 47/2011/TTLT-BGDĐT-BNV và Thông tư số 11/2015, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của phòng GD&ĐT như sau: Dự thảo các văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế chính sách, pháp luật, các quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về hoạt động giáo dục ở địa phương; b) Dự thảo quyết định, chỉ thị, quy hoạch, kế hoạch 05 năm, hàng năm và chương trình, nội dung cải cách hành chính nhà nước về lĩnh vực giáo dục ở địa phương; c) Dự thảo quy hoạch mạng lưới các trường trung học cơ sở; trường phổ thông có nhiều cấp học, trong đó không có cấp học trung học phổ thông; trường phổ thông dân tộc bán trú; trường phổ thông dân tộc nội trú không có cấp trung học phổ thông, trường tiểu học; trường mầm non, nhà trẻ, nhóm trẻ, trường, lớp mẫu giáo (gọi chung là cơ sở giáo dục mầm non) ở địa phương theo hướng dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban nhân dân cấp huyện. - Quản lý nhà trường tiểu học của Phòng Giáo dục Đào tạo 19 Cũng theo quy định tại Thông tư số 47/ 2011 và Thông tư số 11/2015, Phòng GD&ĐT sẽ có vai trò quản lý các trường học trong địa bàn Huyện trong đó có trường tiểu học, cụ thể là: Hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển giáo dục ở địa phương, các cơ chế, chính sách về xã hội hóa giáo dục sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục trên địa bàn; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về giáo dục; Hướng dẫn, tổ chức thực hiện chương trình, nội dung, kế hoạch, chuyên môn, nghiệp vụ, các hoạt động giáo dục, phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; công tác tuyển sinh, thi, xét duyệt, cấp văn bằng, chứng chỉ ; Kiểm tra chuyên ngành theo hướng dẫn của thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo; phối hợp với thanh tra huyện, thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo trong các hoạt động kiểm tra, thanh tra về giáo dục và đào tạo ở địa phương; Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức các cơ sở giáo dục thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Tổ chức ứng dụng các kinh nghiệm, thành tựu khoa học công 20 nghệ tiên tiến, tổng kết kinh nghiệm, sáng kiến của địa phương trong lĩnh vực giáo dục; Tổ chức thực hiện công tác xây dựng và nhân điển hình tiên tiến, công tác thi đua, khen thưởng về giáo dục trên địa bàn huyện; Giúp UBND cấp huyện thực hiện và chịu trách nhiệm về việc thẩm định, đăng ký, cấp các loại giấy phép thuộc phạm vi, trách nhiệm và thẩm quyền của Phòng Giáo dục và Đào tạo theo quy định của pháp luật và theo phân công của UBND Huyện -Hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học - Mục tiêu của hoạt động trải nghiệm Hoạt động trải nghiệm giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực thích ứng với cuộc sống, năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp thông qua các chủ đề hoạt động gắn với những nội dung cụ thể về bản thân, quê hương, đất nước, con người. Hoạt động trải nghiệm giúp học sinh có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, phát triển đời sống tâm hồn phong phú, biết rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên và tình người, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; bồi dưỡng cho học sinh tình yêu đối với quê hương, đất nước, ý thức về cội nguồn và bản sắc 21 của dân tộc để góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam. Mục tiêu giáo dục tiểu học Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành các kĩ năng sống cơ bản, thói quen sinh hoạt tích cực trong cuộc sống hằng ngày, nền nếp học tập ở nhà cũng như ở trường; biết tuân thủ các nội quy, quy định; bắt đầu có định hướng tự đánh giá và tự điều chỉnh bản thân; hình thành những hành vi giao tiếp, ứng xử có văn hoá; có ý thức làm việc nhóm, ý thức tham gia hoạt động lao động, hoạt động xã hội, hoạt động phục vụ cộng đồng; bước đầu biết cách tổ chức một số hoạt động đơn giản, làm quen và hình thành hứng thú với một số nghề gần gũi với cuộc sống của học sinh. Hoạt động trải nghiệm thực hiện mục tiêu hình thành các phẩm chất, thói quen, kĩ năng sống,... thông qua việc tham gia sinh hoạt tập thể, câu lạc bộ, dự án học tập, hoạt động lao động, hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng,... Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa tham gia vừa thiết kế và tổ chức các hoạt động cho chính mình, qua đó tự khám phá, điều chỉnh bản thân, điều chỉnh cách tổ chức hoạt động để sống và làm việc hiệu quả. Ở giai đoạn này, mỗi học 22 sinh bước đầu xác định được sở trường và hình thành một số phẩm chất, năng lực của người lao động và người công dân có trách nhiệm. Đối với giáo dục tiểu học, nội dung chương trình Hoạt động trải nghiệm tập trung nhiều hơn vào các hoạt động phát triển bản thân, kĩ năng sống, quan hệ với bạn bè, thầy cô và người thân trong gia đình. Bên cạnh đó, các hoạt động lao động, hoạt động xã hội và làm quen với một số nghề gần gũi cũng được tổ chức thực hiện. - Vị trí, vai trò của hoạt động trải nghiệm -. Vị trí Theo Dự thảo Chương trình GDPT về Hoạt động trải nghiệm năm 2018 của Bộ GD&ĐT Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục được thực hiện bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12; ở tiểu học được gọi là Hoạt động trải nghiệm, ở trung học cơ sở và trung học phổ thông được gọi là Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp. Hoạt động trải nghiệm trong chương trình giáo dục phổ thông được phân chia theo hai giai đoạn: (i) Giai đoạn giáo dục cơ bản: Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân trong các hoạt động khác nhau, mỗi học sinh vừa 23 tham gia vừa thiết kế và tổ chức các hoạt động cho chính mình, qua đó tự khám phá, điều chỉnh bản thân, điều chỉnh cách tổ chức hoạt động để sống và làm việc hiệu quả. Ở giai đoạn này, mỗi học sinh bước đầu xác định được sở trường và chuẩn bị một số năng lực cơ bản của người lao động và người công dân có trách nhiệm. (ii) Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Chương trình Hoạt động trải nghiệm tiếp tục phát triển những phẩm chất và năng lực đã hình thành từ giai đoạn giáo dục cơ bản thông qua hoạt động phát triển cá nhân, hoạt động lao động, hoạt động xã hội và phục vụ cộng đồng và hoạt động giáo dục hướng nghiệp nhưng tập trung cao hơn vào việc phát triển năng lực định hướng nghề nghiệp [3]. HĐTN được coi là một phương pháp học của học sinh, làm tăng giá trị cho bản thân người học. Đó là một quá trình trong đó chủ thể (học sinh) trực tiếp tham gia vào các loại hình hoạt động và giao lưu phong phú, đa dạng, học sinh tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ môi trường xung quanh. HĐTN giúp học sinh trong quá trình trải nghiệm thể hiện được giá trị của bản thân mình, thiết lập được các quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với các cá nhân khác, với môi trường học và môi trường 24 sống. Sự trải nghiệm có ý nghiã sẽ huy động tổng thể các giá trị của cá nhân từ cảm xúc đến ý thức và hành động. Sự trải nghiệm huy động toàn bộ năng lực hành động, sự liên kết trách nhiệm của bản thân với xã hội. Môi trường học tập tương tác trong đó có sự gắn kết giữa nhận thức với cảm xúc xã hội và hành vi của người học trong những tình huống học tập sống động, người học có thể học tập lâñ nhau, người này có thể học tập kinh nghiệm của người khác, giá trị của mỗi cá nhân đều được thể hiện và được điều chỉnh để thích ứng và điều phối với nhau, với môi trường học. Trong quá trình người học trải nghiệm và hoạt động, một lượng lớn thông tin có thể được truyền qua lại với nhau trong môi trường kiến tạo xã hội, các học thuyết, lý thuyết, định luật,nguyên lý có thể được hình thành và củng cố bởi chính sự khám phá của người học hoặc bởi sự truyền thụ kiến thức từ người học hiểu biết. -Vai trò Mục tiêu của chương trình GDPT là hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu (yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm); năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo); năng lực 25 |