Nướcv iệt nam có bao nhiêu dân tốc anh em năm 2024

Đáp ứng nguyện vọng của cộng đồng người dân tộc Pa Kôh mong được công nhận là một dân tộc chính thức trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên-Huế đang xúc tiến chuẩn bị trình Chính phủ việc bổ sung dân tộc này vào danh mục 54 dân tộc hiện có.

Trao đổi với Vietnam+, đại diện Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết lâu nay hai dân tộc Pa Kôh và Tà Ôi gần như chưa được phân biệt rõ ràng cả trong văn bản hành chính cũng như trong cách nhìn nhận của giới khoa học. Theo danh mục các dân tộc Việt Nam do Tổng cục thống kê ban hành năm 1979, dân tộc Tà Ôih là một trong 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Tộc danh Tà Ôih được sử dụng là tên gọi chung và duy nhất cho các dân tộc Tà Ôih, Pa Kôh, Pa Hy. Trên thực tế, Pa Kôh là dân tộc thiểu số, định cư chủ yếu ở huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế) và huyện Hướng Hóa (Quảng Trị). Người Pa Kôh sống xen kẽ với người Cơ Tu, Tà Ôih, Vân Kiều và có nhiều đặc điểm tương đồng với các dân tộc nhóm Môn - Khmer về trang phục, nhà ở, cách thức canh tác. Với 18.000 người, dân tộc Pa Kôh hiện chiếm số dân lớn nhất trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại Thừa Thiên-Huế. Về phía Chính phủ, ông Nguyễn Lâm Thành, Chánh Văn phòng Ủy ban Dân tộc của Chính phủ, cho biết sắp tới Ủy ban sẽ có văn bản hướng dẫn cụ thể để Thừa Thiên Huế cũng như các địa phương khác có cơ sở, căn cứ thực hiện việc đề xuất bổ sung dân tộc mới vào danh mục các dân tộc Việt Nam.

Theo Vietnam +

(Danvan.vn) Việt Nam có 54 thành phần dân tộc. Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó, đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành độc lập tự do và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam.

Bản sắc văn hóa của các dân tộc được thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng tộc người. Một trong những đặc trưng chung tạo nên phẩm chất con người và văn hóa Việt Nam là lòng yêu nước, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất, gắn bó, hòa đồng với thiên nhiên, cộng đồng làng xóm và đức tính nhân hậu, vị tha của mỗi con người.

54 dân tộc Việt Nam được xếp theo 3 ngữ hệ và 8 nhóm ngôn ngữ: Việt - Mường, Tày - Thái, Mông - Dao, Môn - Khơ-me, Nam Đảo, Tạng Miến, Hán, Ka Đai.

  1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á:

1. Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Chứt. Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.

2. Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y. Đồng bào cư trú tập trung ở các tỉnh vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái.... Các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày Thái nói ngôn ngữ Nam Á, ở nhà sàn, cấy lúa nước kết hợp với làm nương rẫy, biết lợi dụng địa hình thung lũng, sáng tạo ra chiếc cối giã gạo, con quay cùng hệ thống mương, phai, lái, lín đưa nước về ruộng. Các nghề thủ công khá phát triển như: Rèn, dệt với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Họ có quan niệm chung về vũ trụ, con người và những vị thần. Bên cạnh đó, mỗi tộc người lại có những bản sắc riêng, được biểu hiện thông qua trang phục, nhà cửa, tập quán ăn uống, phong tục, lối sống và nếp sống tộc người.

3. Nhóm ngôn ngữ Mông - Dao có 3 dân tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn.

Các tộc người thuộc nhóm này và các nhóm ngôn ngữ Tạng Miến; Ka Đai cư trú tập trung đông ở các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu. Làng bản của họ được xây dựng trên các triền núi cao hay lưng chừng núi. Một số các tộc người như La Chí, Cống, Si La và một vài nhóm Dao dựng làng ven các con sông, con suối. Tuỳ theo thế đất, đồng bào dựng nhà sàn, nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất.

Đồng bào giỏi canh tác ngô, lúa nếp, lúa tẻ và các loại rau, đậu trên nương rẫy và ruộng bậc thang, đồng thời phát triển các nghề thủ công như rèn, dệt vải, đan lát. Đặc biệt phụ nữ vùng cao rất giỏi dệt vải, thêu thùa, làm ra những bộ trang phục độc đáo cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, phô diễn toàn bộ đời sống kinh tế từ văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn... mang đậm dấu ấn văn hóa tộc người.

4. Nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me có 21 dân tộc: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà ôi, Xơ Đăng, Xtiêng. Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, miền Trung - Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông, nhà dài Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn - Khơ Me.

II. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo:

5. Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo có 5 dân tộc: Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru. Đồng bào cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ.

III. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng:

6. Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu. Đồng bào cư trú trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam, văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.

7. Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến có 6 dân tộc: Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La.

8. Ngoài 3 nhóm văn hoá ngôn ngữ trên còn có một số ngôn ngữ khác được gọi là nhóm ngôn ngữ Ka Đai có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo.

Có thể nói văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em, trong đó có những tộc người bản địa sống trên lãnh thổ Việt Nam, có những dân tộc di cư từ nơi khác đến; có những dân tộc chỉ có số lượng vài trăm người, có những dân tộc có hàng triệu người, nhưng các dân tộc luôn coi nhau như anh em một nhà, thương yêu đùm bọc lẫn nhau chung sức xây dựng bảo vệ Tổ quốc như lời Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai, Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự chủ của chúng ta”.

Việt Nam có bao nhiêu dân tộc 2023?

Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam năm 2023” được tổ chức nhằm tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong nền văn hóa thống nhất mà đa dạng của cộng đồng 54 dân tộc.

Nước ta có bao nhiêu dân tộc anh em?

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Người Kinh chiếm 85,4% dân số Việt Nam, với 78,32 triệu người.

54 dân tộc Việt Nam có tên là gì?

Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Thanh Hoá, Lao Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Lâm Đồng... Nùng Xuồng, Nùng Giang, Nùng An, Nùng Phàn Sình, Nùng Lòi, Nùng Tùng Slìn, Nùng Cháo, Nùng Quý Rỵn, Nùng Khèn Lài, Nùng Dýn, Nùng Inh... Tên 54 dân tộc Việt Nam hiện nay?

Việt Nam có bao nhiêu dân tộc kể tên cho biết địa bàn cư trú của các dân tộc đó?

TT Tên gọi Địa bàn cư trú
1 Kinh (Việt) Trong cả nước
2 Tày Hà giang, Tuyên Quang, Lào cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lai Châu, Bắc Thái, Hà Bắc.
3 Thái Sơn La, Lai Châu, Nghệ An, Thanh Hoá, Lao Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Lâm Đồng...
4 Mường Hoà Bình, Thanh Hoá, Vĩnh Phú, Yên Bái, Sơn La, Ninh Bình

DANH SÁCH CÁC DÂN TỘC VIỆT NAMchinhphu.vn › dan-toc › danh-sach-cac-dan-toc-viet-nam-10000494null