Ôn tập văn tế nghĩa sĩ cần giuộc năm 2024

Cơ quan chủ quản: Công ty Cổ phần Đầu tư và Dịch vụ Giáo dục MST: 0102183602 do Sở kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 13 tháng 03 năm 2007 Địa chỉ: - Văn phòng Hà Nội: Tầng 4, Tòa nhà 25T2, Đường Nguyễn Thị Thập, Phường Trung Hoà, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. - Văn phòng TP.HCM: 13M đường số 14 khu đô thị Miếu Nổi, Phường 3, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh Hotline: 19006933 – Email: [email protected] Chịu trách nhiệm nội dung: Phạm Giang Linh

Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến số 597/GP-BTTTT Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 30/12/2016.

Có ý kiến cho biết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã tạo ra bức tượng đài biểu tượng của người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là hình ảnh không chỉ đẹp mắt, bi thương mà còn tràn đầy hào hùng, tráng lệ. Dựa trên kiến thức và lập luận, em hãy viết bài văn chứng minh nhận định này.

Danh sách nội dung: 1. Bài mẫu số 1 2. Bài mẫu số 2 3. Bài mẫu số 3

Đề bài: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về nhà nông anh hùng

Ôn tập văn tế nghĩa sĩ cần giuộc năm 2024

3 bài văn mẫu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về anh hùng nông dân

Giải pháp Phương pháp phân tích đoạn thơ xuất sắc

Mẫu số 1: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về anh hùng nông dân

Nguyễn Đinh Chiểu, là một nhà thơ với tâm hồn yêu nước sâu sắc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông luôn tôn trọng đạo đức và đặt tình yêu dành cho dân và đất nước làm trung tâm. Dù viết về nhiều đề tài, nhưng những bài thơ chống giặc, tinh thần đoàn kết yêu nước vẫn là những tác phẩm xuất sắc nhất. Bài văn về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là minh chứng rõ nét cho tư tưởng yêu nước của nhà thơ, mở ra một góc nhìn mới về anh hùng trong văn học.

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác theo hình thức phú luật Đường, với bố cục chia thành bốn phần theo quy định của thể văn tế. Tác phẩm này khẳng định thành công của Nguyễn Đình Chiểu trong nghệ thuật viết vận tế. Bài văn tưởng nhớ đến những chiến sĩ Cần Giuộc anh dũng đã hi sinh trong cuộc chiến chống xâm lược, đồng thời truyền đạt tinh thần chiến đấu, khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân. Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, có một tượng đài nghệ thuật vững vàng về người nông dân, tương xứng với phẩm chất nghề nghiệp của họ. Ở đây, họ là những nông dân nghĩa quân chiến đấu, cứu nước.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có. Vẻ đẹp của tượng đài nghệ thuật này vừa hoành tráng, hùng vĩ, vừa truyền cảm, bi thương. Tác phẩm thể hiện một quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, độc đáo và mới lạ so với văn học yêu nước ở giai đoạn trước.

Quan niệm về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu khác biệt như thế nào so với các nhà Nho yêu nước xưa? Trong quá khứ, khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhiều nhà văn thường tập trung mô tả về những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Ngược lại, với Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh về người anh hùng không tìm kiếm ở những nơi xa xôi, mà lại xuất phát từ những người nông dân chân chất, tận tâm và yêu nước. Tài năng của ông là khám phá và xây dựng hình tượng người anh hùng nông dân bằng văn chương. Đây không chỉ là một cá nhân, mà là toàn bộ nhóm những người anh hùng, là những nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Hình ảnh trung tâm của tác phẩm là những chiến sĩ nghĩa quân. Xuất phát từ nền nông dân nghèo, cuộc sống của họ đơn sơ, chăm chỉ làm việc nông nghiệp, chưa quen với việc cung ngựa, học văn. Họ là những người chân lấm tay bùn, thường xuyên cuộc sống trong làng. Nhưng khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược, những người dân chân chất ấy đã hiên ngang đứng lên, hi sinh vì lý tưởng cứu nước. Đánh giặc để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Bát cơm manh áo là ý nghĩa lớn mà họ tôn trọng và hành động. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những dòng văn giản dị nhưng chứa đựng tinh thần yêu nước cao quý.

Cảm nhận mùi ngon của bòng bong che trắng như lốp, muốn đến thưởng thức gan; hôm nay, nhìn thấy ống khói đen sì bay lên, muốn ra đây thưởng thức ẩm thực.

Tác giả đã mô tả một cuộc chiến đấu đầy quyết tâm và sức mạnh mạnh mẽ của các chiến sĩ Cần Giuộc. Họ chỉ mặc chiếc áo vải đơn giản, trang bị vũ khí như một cây gậy vông, một chiếc dao phay hoặc một khẩu súng hỏa mai bằng rơm con cúi. Tuy nhiên, họ vẫn ghi được những chiến công xuất sắc như chém đầu quan thù và thiêu rụi nhà dạy đạo. Thật sự, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tượng đài nghệ thuật về những anh hùng chiến đấu không khuất phục, sẵn lòng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.

Ôn tập văn tế nghĩa sĩ cần giuộc năm 2024

Chứng minh rằng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một kiệt tác nghệ thuật về người anh hùng nông dân.

Nhìn chiếc quạt quản gió rơi, đạp rào đi mượt mà, thấy gióng chiến trống hối kích, coi trận đánh như một sự kiện không thể đánh bại; không sợ đạn nhỏ đạn to của thằng Tây, xông cửa mạnh mẽ, liều lĩnh như không có gì.

Những đoạn văn tuyệt vời như những tia lửa bùng cháy. Không khí chiến trận hừng hực âm nhạc chiến đấu, trống hồi hộp, bước chân điên đảo, mở cửa đón những thách thức, dũng cảm nhưng không hề do dự. Các chiến sĩ xem cái chết như một bản hòa nhạc không tên xâm chiếm lãnh thổ của kẻ thù. Bằng cách diễn đạt hùng biện, tình yêu quê hương, những hành động mạnh mẽ và chín mùi... đã làm nổi bật tâm hồn chiến đấu dũng cảm không thể đo bằng của những người anh hùng Cần Giuộc. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dành tặng những trái tim của những chiến sĩ nghĩa quân những cảm xúc tươi đẹp nhất, sự ca ngợi và sự kính trọng tự hào. Thông qua đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh lần đầu tiên của người nông dân trong thơ văn với vị thế cao quý của những anh hùng dân tộc, những người xuất thân từ tầng lớp nông dân, luôn chăm chỉ với cày cuốc, nhưng khi đối mặt với giặc xâm lược, họ đã tỏ ra anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và nhiệt huyết nhất, hy sinh bản thân cho sự độc lập của dân tộc.

Điểm độc đáo của Nguyễn Đình Chiểu là khả năng nhìn nhận những nhân vật anh hùng ngay trong cuộc sống hàng ngày, không phải là những nhân vật xuất sắc hay tài năng, chỉ đơn giản là những người nông dân sống giản dị, làm việc chăm chỉ. Họ luôn gần gũi với chúng ta mỗi ngày. Điều này xuất phát từ góc nhìn của Nguyễn Đình Chiểu - về anh hùng nông dân, khiến người đọc nhận ra rằng anh hùng, những con người cao quý không ở xa xôi, mà luôn đồng hành bên cạnh chúng ta. Có thể nói, quan điểm tiến bộ về hình ảnh người nông dân làm cách mạng không phải ai cũng hiểu được, nhưng qua bức tranh của Nguyễn Đình Chiểu, ta thấy ông là lá cờ tiên phong về quan điểm này.

Những chiến sĩ đã sống một cách dũng cảm và chết một cách vẻ vang. Tâm hồn chiến đấu và sự hi sinh của họ như một viên ngọc lấp lánh gửi trao cho bóng trăng thanh thoát mãi mãi, sáng bừng mãi, tồn tại song hành với núi non. Bài học quan trọng nhất mà những người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về cuộc sống và cái chết. Sống một cách kiêu hãnh, chết một cách không khuất phục. Tâm hồn đó đã đặt nền móng cho kiệt tác nghệ thuật về người nông dân đánh giặc.

Sống để chống giặc, thác cũng chống giặc, linh hồn hỗ trợ mỗi cơ binh, kiếp kiếp truy cứu mối thù ấy...

Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đưa ta hòa mình vào một không gian văn chương tinh tế, nơi bức tranh về anh hùng nông dân nở rộ trong từng nét chữ. Bằng cách tận dụng bút pháp trữ tình và hiện thực, tác giả đã khéo léo tái hiện cuộc sống đầy xúc động của dân tộc, để lại dấu ấn sâu sắc về lòng yêu nước và tình anh hùng.

"""" Kết thúc phần 1 """"-

Ngoài bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta có thể khám phá thêm về nghệ thuật của người anh hùng nông dân qua Tóm tắt bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hoặc Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây sẽ là nguồn kiến thức quý báu để nâng cao khả năng sáng tạo và viết văn của chúng ta.

Mẫu số 2: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, biểu tượng của nghệ thuật về anh hùng nông dân

Nguyễn Đình Chiểu, nhà Nho yêu nước tài hoa cuối thế kỉ XIX, trải qua những biến cố đau thương. Bằng nghị lực phi thường, ông trở thành nguồn động viên tinh thần với nhiều thế hệ... 'Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc', Nguyễn Đình Chiểu kiệt tác bức tượng đài bi tráng về người nông dân anh hùng chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Lời đánh giá trên đúng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ trôi qua, đọc lại bản văn tế ấy, ai cũng khó có thể giữ được cảm xúc bởi 'nước mắt anh hùng' vẫn chưa khô.

Bắt đầu tác phẩm, tác giả vang lên lời than khóc: Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ!

Đây là hoàn cảnh đen tối, là nền tảng mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc vang vọng khắp nơi. Kẻ thù tàn bạo đã đến. Xã hội chao đảo trước 'tàu sắt, tàu đồng, âm thanh của súng nổ', có lẽ, đây là lúc:

Bến Nghé dưới bóng đêm đen của giặc Đồng Nai điên đảo trong màu mây Chính là thời điểm: Những đứa trẻ vô tội chạy trốn nhà cửa Mất hết tổ ấm, đàn chim hoang bay bay

(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)

Từ trận địa khốc liệt, tan tác, nơi đau thương gọi là nhà, tấm lòng của những người dân bừng sáng giữa bức tranh xanh biếc của trời!

Ai họ là?

Họ không phải những hiệp sĩ kiên cường, những chiến sĩ dũng mãnh, cũng không phải những quý tộc được thưởng lợi từ sự hậu hĩnh của vua. Họ chỉ là những con người:

Làm ăn vất vả, lo toan về cơm ... Chỉ biết cày cuốc, sống chật trong làng quê Lao động, cày cấy, bừa mả, cấy trồng, tay chân quen thuộc; Tập luyện, súng đạn, chiến thuật, cờ đỏ sao vàng, ánh mắt chưa từng ngoảnh lại

Họ toàn bộ là những người làm ruộng, nông dân 100% sống suốt năm tháng không bao giờ rời xa đồng quê! Ngoài ra, họ còn là những nông dân thuộc diện nghèo, nghèo đến mức đau lòng. Hai từ 'côi cút' trong miệng cụ Đồ chỉ làm lòng ta thêm xót xa! Cả cuộc đời, qua nhiều thế hệ chỉ biết bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Tuy nhiên, chính những người bị bỏ lại ấy là những kẻ đầu tiên đứng lên, dù không phải là quân lính, quân vệ. Họ chỉ vì tình nghĩa lớn mà tụ tập dưới bóng cờ.

Một vùng đất rộng lớn, ai dám săn rắn, bắt hươu Hai vòng tròn mặt trời sáng ngời, chẳng thấy bóng người leo núi săn chó.

Ôn tập văn tế nghĩa sĩ cần giuộc năm 2024

Hướng dẫn Chứng minh bằng chứng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật tôn vinh người anh hùng nông dân

Với những dòng văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy họ là những nghĩa sĩ, những con người mang trách nhiệm cao với đất nước, những người mang trong mình tinh thần không khuất phục. Vì vậy, họ quyết định 'Phen này xin ra sức đoạn kình... Chuyến này dốc ra tay bộ hổ'.

Đó là tư tưởng của những người như Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng đã đánh cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rừng sâu trong truyền thống dân tộc.

Tuy nhiên, Cụ Đồ Bến Tre vẫn ghi nhớ họ là những người chân đất, có trái tim đầy căm hận với kẻ thù tận xương tủy:

Nhìn thấy bóng trắng che lấp lốp, muốn tới và thưởng thức gan

Ngày thấy khói đen chảy, muốn bước ra để đối đầu!

Sự căm thù này thúc đẩy họ vượt qua khó khăn, không chờ đợi vũ khí, quân trang, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch hùng mạnh, có vũ khí tinh tế, có đám lính thuê tàn bạo, có những kẻ phản quốc gian ác... quyết tâm nhảy vào trận đấu với những vũ khí tự chế thô sơ:' Hỏa mai cháy bằng lớp rơm/ Gươm đeo sử dụng lưỡi dao phay', nghĩa là có gì sẵn có, miễn là hạ được đối thủ! Nếu không có tấm lòng vì lý ideal, làm sao có được cái dũng khí ấy?

Và, khi bước vào trận, họ thực sự là phi thường:

Vượt qua rào chông gióng trống, đạp qua rào nguy hiểm, coi trọng đối thủ như không tìm thấy; không sợ đạn nhỏ, đạn to của thế lực ngoại bang, lao vào liều mình như chẳng có gì xảy ra.

Kẻ đâm xuyên, người chém phản, khiến linh hồn tà ma rúng động; bọn hè trước, lũ ó sau, không để ý tới tàu sắt, tàu đồng, và âm thanh của súng nổ.

Một trận chiến kiên cường, mãnh liệt tận cùng trong hồn căm thù! Những động từ mạnh mẽ như 'đạp - lướt - xô - xông - đâm xuyên - chém phản...' khiến cho độc giả hàng trăm năm sau còn cảm nhận được sức mạnh của quân đội vì lý tưởng. Trong lửa cháy bùng lên, nhấp nhô những cánh tay trần truồng, lấp lánh ánh sáng của lưỡi dao phay, tiếng bước chân ồn ào, tiếng thét giết tươi báo hiệu sự đối đầu đẫm máu với kẻ thù...

Trong văn học Việt Nam thời điểm đó, chưa có bức tranh nào thể hiện hiện thực một cách sinh động như vậy! Không chút huyền bí, chỉ là sự miêu tả chân thực của nhà văn theo trường phái Nho giáo. Làm thế nào một người 'chỉ có bóng đêm' lại có cái nhìn sâu sắc như vậy? Sự tài năng hay tấm lòng? Có thể là cả hai!

Tinh thần quyết chiến đó của người nghĩa sĩ đã tạo ra những chiến công đáng khen ngợi. Họ tiêu diệt được tên chỉ huy độc ác, thiêu cháy tổ gián điệp, chiến thắng kẻ thù trội, kẻ thù dưới nước, kẻ thù thứ ba, kẻ thù tư tưởng (người dạy đạo)... Ý nghĩa càng trọng đại khi những chiến công đó được đạt được bằng những vũ khí vô cùng thô sơ! Bức tượng đài lớn mạnh đó trở nên vô cùng ấn tượng.

Thương cảnh! Họ đã đổ gục! Sự hy sinh dũng cảm của họ đã làm đau lòng cả vùng đất Nam Bộ: Nhìn sông Cần Giuộc, cỏ cây khắp nơi trải dài sầu thương; Chợ Trường Bình lạnh buốt, già trẻ đau lòng ở hàng lụy nhỏ. Đất trời âm u! Mọi người khóc thương! Nỗi đau thảm này biết bao đắng cay! Sau cái chết của những anh hùng sẽ là: Đau đớn đến tận cùng! Mẹ già ngồi khóc con, ngọn đèn khuya bóng lạnh trong lều; trái tim nát tan! Vợ nhỏ yếu đuối chạy tìm chồng, bóng tối u ám nằm đậu trước ngõ.

Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng máu và nước mắt để sáng tác những dòng văn đầy cảm xúc như thế!

Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã kìm lệ để tôn vinh những người chiến sĩ hy sinh với tâm hồn kiên cường dưới ánh trăng tròn,'sống đánh giặc cũng đánh thác, linh hồn cùng giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả thù', nghĩa là những con người ấy chết nhưng vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không thể giữ lại được nước mắt đau đớn!

Bức tượng đài lớn mà Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra với bàn tay của mình sẽ luôn hiện hữu cùng với đất sông Việt Nam! Đó là bức tượng đài đầu tiên về những người nông dân chiến đấu! Chúng ta đều biết, người Việt từ khi biết dùng cành cây đâm gieo hạt cũng là lúc họ biết làm bằng tre nhọn để chống lại mọi kẻ thù có bốn chân và hai chân! Họ thật sự là chủ nhân của quê hương. Nhưng trong văn hóa chính thống trước đó, họ chưa bao giờ trở thành tâm điểm! Nay, Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại danh dự xứng đáng cho những người nơi lấm bùn. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao rạng ngời trên bầu trời văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX với đóng góp đáng kể từ 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc'! 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' sẽ mãi mãi là 'bản hòa nhạc về những anh hùng thất thế' (Phạm Văn Đồng).

Đượm một nén hương tâm để nhớ, nhớ lần thứ hai, nhớ anh hùng liệt sĩ, nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

Nguyễn Đình Chiểu, một thi sĩ mù nhưng tâm hồn ông rực sáng. Khi giặc Pháp xâm chiếm Nam Bộ, ông không thể tham gia chiến đấu nhưng vẫn theo dõi sự kiện, chiến trận. Ông viết những bài thơ ca ngợi lãnh đạo của nghĩa quân, khen ngợi những anh hùng đã hy sinh dũng cảm chống lại thế lực phương Tây. Ông tỏ lòng thương tiếc đối với những anh hùng vô danh đã hi sinh cho Tổ quốc. Bài thơ 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' là kiệt tác của ông, là đỉnh cao về tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu. Với bài viết này, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, hình ảnh người nông dân đứng lên chống giặc bảo vệ đất nước hiện ra mạnh mẽ như một tượng đài nghệ thuật bi tráng về người nông dân yêu nước đối mặt với thách thức ngoại xâm.

Tầm nhìn sáng tạo của Nguyễn Đình Chiểu đã được thể hiện qua bút lực và tài năng để khen ngợi những anh hùng thất thế.

Trong hồn cao cả của nhà thơ, trong những giọt lệ thương tiếc của nhân dân, hình ảnh anh hùng nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc hiện rõ:

Súng giặc đất rền Lòng dân trời tỏ

Bức tranh đối lập này phản ánh mâu thuẫn sâu sắc, gay gắt của thời đại, cuộc chiến xâm lược và sự đấu tranh chống lại nó, làm nổi bật vai trò quan trọng của nhân dân trong nhiệm vụ bảo vệ đất nước. 'Lòng dân' lung linh giữa biển lửa, trong âm vang của chiến tranh. Chỉ có những người nghệ sĩ của nhân dân mới có thể tạo dựng hình ảnh tượng trưng cho người nông dân giữa bối cảnh khốc liệt như vậy.

Bức 'Tượng đài nghệ thuật' được nhà nghệ sĩ nhân dân mô phỏng kỹ lưỡng hơn với những chi tiết hoành tráng, sinh động. Họ là những người nông dân chịu đựng khó khăn, lao động chăm chỉ, chưa từng tham gia quân đội hay cuộc chiến tranh.

Làm ăn cui cút, toan lo nghèo khó, Chưa biết cung ngựa, chẳng đến trường nhung Chỉ thuộc về ruộng trâu, sống làm bộ

Đây là những người nông dân Nam Bộ thế kỉ XIX, là nông dân Việt Nam phong kiến, chất phác, truyền thống, sống giản dị. Họ trung dung, chăm chỉ lao động, chỉ quen với cánh đồng ruộng 'một con trâu cũng quý hơn một vị hoàng đế' - như lời của một nhà thơ thời cổ Hy Lạp.

Ôn tập văn tế nghĩa sĩ cần giuộc năm 2024

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tượng đài nghệ thuật về anh hùng nông dân

Họ hoàn toàn lạ lẫm với việc quân 'chưa quen cung ngựa, chẳng đến trường nhung', càng không biết đến việc 'tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ', chẳng có ý thức về 'mười tám ban võ nghệ'.

Khi giặc Pháp xâm chiếm đất nước, những người nông dân trước đây chỉ biết 'cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó' bất ngờ đứng lên, đánh giặc với tình yêu quê hương sâu sắc và lòng căm thù cao độ. Họ, những nông dân hiền lành, trở thành những nghĩa sĩ bất khuất, kiên cường.

Bóng bồng che trắng lốp hiện lên, muốn đến và thưởng thức gan Ống khói đen xì trôi chảy, muốn ra và tận hưởng cái cổ Mối xa ngoạn mơ, liệu có ai chém rắn đuổi hươu? Dưới ánh nắng mặt trời lòa, nơi lũ treo dê chào đời, có lẽ chẳng ai để ý.

Họ tham gia cuộc chiến với tinh thần tự do, 'không đợi ai đòi ai bắt', và không trốn tránh. Họ đã mất hết niềm tin vào triều đại thối nát đó.

Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, chỉ mặc 'một chiếc áo vảo', chỉ có 'một cành tầm vông' làm vũ khí. Nhưng với vũ khí tinh thần quý báu, lòng yêu nước, họ đã chiến đấu một cách dũng cảm và phi thường.

Cháy rụi nhà đạo dạy với hỏa mai bằng rơm, lửa bùng cao khiến cho kẻ thù không thể thoát khỏi trách nhiệm đầu quân.

Với lòng yêu nước cao cả, họ đã biến công cụ sản xuất thành vũ khí lợi hại. Tượng đài nghệ thuật về người chiến sĩ nông dân Cần Giuộc hiện lên với bức tranh sống động: một tay cầm con cúi ngùn ngụt khói, một tay vung lưỡi dao phay!

Họ đối mặt với vũ khí hiện đại của giặc Pháp mà không khuất phục: Giữa tiếng trống kêu và đạp rào lướt, họ không e sợ kẻ thù Bất chấp đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có Đâm ngang và chém ngược, khiến cho giặc phải chật vật chống đỡ. Những ngày đó, hè trước lũ ó sau, họ phớt lờ sự kì thị, bất chấp sự nổ của tàu thiếc và tàu đồng súng.

Đây không chỉ là một tượng đài nghệ thuật, mà còn là một bức tranh sống động về cuộc nổi dậy của những người nông dân Cần Giuộc chống Pháp. Nhóm tượng này đầy màu sắc, với đường nét sắc sảo và hình khối ghồ ghề, tạo nên bức tranh rõ nét về sự quyết liệt và cuồng nộ của những người nông dân chống giặc.

Lí tưởng của người nghĩa sĩ nông dân đơn giản mà cao quý: Sống làm gì, quăng hương tả đạo, xô bàn độc, càng thêm buồn. Sống làm gì ở lính Mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Với những đường nét hoành tráng, người nghệ sĩ đã tạo nên 'tượng đài nghệ thuật' một cách hùng vĩ. Hùng vĩ vì đây là hành động của những anh hùng vì nghĩa lớn. Hùng vĩ ở lí tưởng tốt đẹp, phẩm chất cao cả của người nghĩa sĩ nông dân. Hùng vĩ vì nó được dựng lên trong những thời điểm sóng gió, bão táp, trong những giờ phút quyết định sống còn của đất nước.

Hùng vĩ và bi thương vì họ là những anh hùng chiến bại. Nói 'tượng đài nghệ thuật mang tính chất bi tráng' là đúng. Nhà thơ đã tạo nên một 'tượng đài nghệ thuật' về những người nghĩa sĩ nông dân trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ và của nhân dân. Nhưng tượng đài bi tráng chứ không bi lụy. Trong nước mắt, trong tiếng khóc, ta cảm nhận nhà thơ muốn dựng tượng đài nghệ thuật - những người nghĩa sĩ nông dân - trong lòng người. Họ sống mãi trong tình thương, trong trái tim của những người thân yêu, trong lòng nhân dân.

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Họ trở nên bất tử, cuộc chiến anh dũng của họ tiếp tục hòa mình vào sứ mệnh bảo vệ đất nước của dân tộc:

'Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn khiếp nguyện được trả thù kia'

Tượng đài, bia đá có thể bị hao mòn, chịu sự tàn phá của thời gian và con người, nhưng tượng đài nghệ thuật về những người chiến dĩ nông dân vẫn đứng vững, bất khuất.

Ông Phạm Văn Đồng đã xếp bài văn tế này ngang hàng với 'Cáo Bình Ngô' của Nguyễn Trãi, coi đây là bài ca về anh hùng chiến thắng và bài ca về anh hùng thất thế, nhưng vẫn kiêu hãnh. 'Tượng đài nghệ thuật' về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm của Nguyễn Đình Chiểu sống mãi trong tâm hồn anh hùng của dân tộc Việt Nam.

""""-- Hết """"-

Trên đây, Mytour xin giới thiệu 3 bài văn mẫu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một biểu tượng nghệ thuật của anh hùng nông dân, được lựa chọn từ những bài văn xuất sắc nhất của học sinh trung học phổ thông trên khắp đất nước. Ngoài ra, để nâng cao kiến thức và kỹ năng viết văn phân tích đoạn văn, đoạn thơ trong chương trình học Ngữ văn lớp 11, các bạn có thể tham khảo bài mẫu Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương, Phân tích tâm trạng người lữ khách trong bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát, Phân tích cái tôi ngất ngưỡng của Nguyễn Công Trứ qua bài thơ Bài ca ngất ngưỡng, phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương,...

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]