Quốc hiệu nước ta thời vua minh mạng là gì
LNV - Quốc hiệu – Tên gọi đất nước là việc rất quan trọng trong xã hội nước ta ở bất kỳ thời kỳ và thể chế nào. Quốc hiệu nước ta trải qua rất nhiều thời kỳ với nhiều tên gọi khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ đề cập từ thời các vua triều Nguyễn. Trong thời kỳ triều Nguyễn trị vì, nước ta có hai quốc hiệu chính thống là Việt Nam và Đại Nam. Tuy nhiên, khi quốc hiệu là Đại Nam thì tên gọi Việt Nam vẫn được dùng phổ biến. Show
Như chúng ta đã biết, trong các sách chính sử triều Nguyễn, mà cụ thể là bộ sách “Đại Nam Thực Lục”, một bộ sách sử nổi tiếng có tính chân thật lịch sử của vương triều Nguyễn đã ghi chép rất cụ thể về việc đặt Quốc hiệu. Theo đó, vương triều Nguyễn có hai lần đặt Quốc hiệu vào các thời vua Gia Long và Minh Mạng. Thời kỳ chế độ phong kiến Việt Nam, mỗi triều đại đều rất quan tâm đến quốc hiệu (tên gọi) của đất nước. Vấn đề đó cũng không phải mới mẻ đối với vương triều Nguyễn. Thông thường, mỗi vương triều không muốn dùng quốc hiệu của các vương triều trước mà sẽ đặt một quốc hiệu khác. Không gian trưng bày cổ vật tại Huế Quốc hiệu đầu tiên của vương triều Nguyễn là Việt Nam. Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành Quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Sự kiện này được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng là Chiếu của vua Gia Long năm thứ 3 (tức năm 1804) cách đây 218 năm và được thông báo cho các nước biết. Sách “Đại Nam thực lục chính biên” (Đệ nhất kỷ - Ghi chép lịch sử triều vua Gia Long), quyển 23 chép: “Đặt Quốc hiệu là Việt Nam, ngày Đinh sửu đem việc cáo Thái miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài. Chiếu rằng: Đế vương dựng nước, trước phải trọng Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa. Lại hạ chiếu báo cáo với nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng khiến đều biết cả” Chiếu của vua Gia Long về việc đặt Quốc hiệu là Việt Nam Sự kiện vua Gia Long cho đặt Quốc hiệu là Việt Nam là việc rõ ràng, được sách chính sử triều Nguyễn ghi chép rất cụ thể. Thực tế trong triều Nguyễn, Quốc hiệu Việt Nam tồn tại chỉ được 34 năm. Vì sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi Quốc hiệu là Đại Nam vào năm Minh Mạng thứ 19 (tức năm1838). Sự kiện này được sách chính sử triều Nguyễn phản ánh và được xác nhận bằng một văn bản quan trọng là bản Dụ của vua Minh Mạng bố cáo cho toàn thần dân trong nước và các nước đều biết. Trên thực tế quốc hiệu Đại Nam tồn tại 107 năm (1838 – 1945). Từ đó tên gọi Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học, chí sĩ yêu nước và cả nhân dân. Trong các tác phẩm và tên tổ chức chính trị, tên gọi Việt Nam lại được nhắc đến rất nhiều, chẳng hạn: Phan Bội Châu viết tập “Việt Nam vong quốc sử” (1905) rồi cùng Cường Để thành lập “Việt Nam Công hiến hội” (1907), “Việt Nam Quang phục hội” (1912); Phan Chu Trinh viết “Pháp – Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam (1910 – 1911)”; Trần Trọng Kim viết “Việt Nam sử lược” (1920); Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (1941)… Dụ của vua Minh Mạng về việc đặt Quốc hiệu là Đại Nam Bên cạnh đó, theo các tài liệu một bộ phận dân chúng nước ta thời bấy giờ vẫn gọi tên đất nước là Việt Nam dù thực tế vua Minh Mạng đã cho đổi tên Quốc hiệu là Đại Nam. Đây là điều khá thú vị và chưa có một nghiên cứu nào đề cập cụ thể. Có thể nói, từ năm 1838 hai Quốc hiệu Việt Nam và Đại Nam vẫn được dùng song song với nhau. Sau 107 năm tồn tại, Quốc hiệu Đại Nam cũng chính thức chấm dứt sứ mệnh vào năm 1945. Ngày 19.8.1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị (30.8.1945). Ngày 02.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa quốc hiệu này. Từ đấy, Quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất.. Bài, ảnh: Phan Long Mua sắm hạnh phúc, Kinh doanh hiệu quả Công ty Cổ phần Vật Giá Việt Nam. Số GCNDT: 0102015284, cấp ngày 21/06/2012 Nơi cấp: Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội Trụ sở chính: 102 Thái Thịnh, P. Trung Liệt, Hà Nội Đà Nẵng: Tầng 6, Số 53 Nguyễn Văn Linh, TP Đà Nẵng Hồ Chí Minh: Đường Lữ Gia, Quận 11, Hồ Chí Minh Minh Mạng (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) hay Minh Mệnh, là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi ông qua đời, được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Thánh Tổ. Ông là vị vua có nhiều thành tích nhất của nhà Nguyễn. Đây được xem là thời kỳ hùng mạnh cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam.
Bài Viết Liên QuanQuảng CáoCó thể bạn quan tâmToplist được quan tâm#1
#2
Top 10 lời chúc mừng sinh nhật con trai 3 tuổi 20237 tháng trước#3
Top 8 từ ghép trong bài việt nam quê hương ta 20237 tháng trước#4
Top 17 r la gì trong vật lý 10 20237 tháng trước#5
#6
Top 8 sữa tươi tách béo không đường vinamilk 20237 tháng trước#8
Top 8 ý nghĩa của câu gan vàng dạ sắt 20237 tháng trước#9
Top 8 mẫu bánh sinh nhật cho be trai 3 tuổi 20237 tháng trướcQuảng cáoXem NhiềuQuảng cáoChúng tôiTrợ giúpBản quyền © 2021 Blog của Thư Inc.
|