So sánh wto và fta
Show
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Vai trò của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong thương mại quốc tế15:10 26/09/2017
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của sản xuất, hoạt động thương mại thế giới thể hiện ở các nhu cầu giao thương, loại hình sản phẩm, dịch vụ, nguyên tắc, chuẩn mực giao dịch... cũng có sự phát triển ngày càng cao, minh bạch, toàn diện, hướng đến sự phát triển bền vững.
Thúc đẩy mối quan hệ giữa Việt Nam- EU: Rất nhiều lợi thế, rất nhiều nỗ lực
Giới chức Mỹ lạc quan về tái đàm phán FTA với Hàn Quốc
Hướng dẫn thực thi C/O theo Hiệp định VN-EAEU FTA
Minh chứng cụ thể là sự chuyển đổi lên mức độ rộng hơn, cao hơn trong các thỏa thuận thương mại tự do, mà hiện nay được gọi là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. 1- Theo quan niệm truyền thống, hiệp định thương mại tự do (FTA) là một thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm mục đích tự do hóa thương mại về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó bằng việc cắt giảm thuế quan, có các quy định tạo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên. Để khôi phục nền kinh tế, nhiều quốc gia đã xác lập các hàng rào thuế để bảo vệ thị trường nội địa trước sự xâm nhập của hàng hóa bên ngoài có khả năng cạnh tranh cao hơn. Các quốc gia gần gũi về địa lý thực hiện các thỏa thuận trong giao dịch thương mại, tạo các ưu đãi để thúc đẩy phát triển kinh tế. Các nước tham gia GATT đã tiến hành nhiều đợt đàm phán để ký kết những thỏa thuận thương mại mới và mỗi đợt đàm phán như vậy được gọi là một vòng đàm phán. Tại vòng đàm phán thứ tám, kết thúc năm 1994, các nước thành viên nhất trí thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thay cho GATT. Nhìn chung, những thỏa thuận thương mại trong các vòng đàm phán đó ràng buộc các nước ký kết phải tiến hành cắt giảm thuế cũng như giảm bớt các hàng rào thương mại phi quan thuế khác đối với hàng hóa. Mức độ giảm thuế khác nhau tùy theo từng nước cũng như từng loại hàng hóa. Chính vì vậy, các thỏa thuận thương mại trên cơ sở các FTA không chỉ bao chứa các thỏa thuận trao đổi hàng hóa và dịch vụ, xúc tiến đầu tư, mà còn có cả các nội dung, yêu cầu mới mà trong khung khổ GATT/WTO chưa có quy định. Phạm vi cam kết của FTA này còn bao gồm những lĩnh vực, như thuận lợi hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh, các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề dân chủ, nhân quyền hay chống khủng bố... Các FTA với các nội dung mới như vậy chính là thế hệ thứ ba, mà hiện nay thường được gọi là “FTA thế hệ mới”. Điều này cũng có nghĩa, khái niệmHiệp định thương mại tự dođược sử dụng rộng rãi, không chỉ trong phạm vi hẹp của những thỏa thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của giai đoạn trước thập niên 80 của thế kỷ trước, mà được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước với nhau. Các hiệp định này còn bao gồm các nội dung tuy không phải là thương mại trực tiếp nhưng có liên quan đến thương mại, như đấu thầu, môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động và công đoàn. Thực ra, tiêu chuẩn lao động và vấn đề môi trường là những vấn đề đã từng được đưa ra khỏi Chương trình nghị sự thương mại toàn cầu kể từ Hội nghị Xi-a-tơn của WTO năm 1999, bởi các nước đang phát triển lúc đó còn nghi ngại, cho rằng đây dường như là những “hàng rào bảo hộ mới”. Song, trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng, vì chính người lao động là người trực tiếp sản xuất các sản phẩm hàng hóa, nên trước hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản, và cũng là để bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. Đây là cách tiếp cận trong đàm phán của các FTA thế hệ mới và đang trở thành một xu thế trong những năm gần đây trên thế giới. Trong FTA Việt Nam và EAEU vẫn áp dụng quy trình cấp chứng nhận xuất xứ thông qua một cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quy định như trong các FTA truyền thống Việt Nam đã ký, chứ không phải doanh nghiệp tự chứng nhận như trong TPP. Các nội dung về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, phát triển bền vững... chủ yếu mang tính hợp tác và không vượt quá những cam kết như trong WTO. Điều này thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu nội khối và cũng vì vậy thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu thương mại của các nước thành viên FTA. Đối với các FTA thế hệ mới, mức cắt giảm thuế rất sâu trên nhiều hàng hóa và dịch vụ nên tác động tạo thương mại càng mạnh, cũng có nghĩa cơ hội đặt ra nhiều đi liền với thách thức trong quá trình cơ cấu lại, nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên, khi một trong các quốc gia tham gia FTA, họ sẽ chuyển sang nhập khẩu hàng hóa nội khối, cho dù chí phí sản xuất có cao hơn, nhưng do được giảm thuế và các ưu đãi khác, nên giá nhập khẩu vẫn có tính cạnh tranh. Do vậy, điều đó sẽ gây thiệt hại cho quốc gia không phải là thành viên FTA. Về bản chất ở đây có sự phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại quốc tế. Đây là hiệu ứng thúc đẩy các quốc gia không là thành viên FTA đàm phán để tham gia FTA hay ký các FTA mới. Như vậy, khi một FTA được ký kết, nó sẽ có những tác động đến lợi ích các quốc gia, và sẽ làm thay đổi chính sách của các quốc gia là thành viên cũng như những quốc gia không là thành viên của một FTA nào đó. Tất nhiên, đi liền với mở rộng thị trường là sự gia tăng cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Cạnh tranh được coi là động lực phát triển và đó cũng là tác động lớn nhất của FTA. Tham gia FTA đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp trong các quốc gia thành viên không còn nhận được sự bảo hộ từ các công cụ chính sách thương mại của nhà nước. Họ sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt hơn từ các sản phẩm của các nước thành viên FTA. Các tác động mang tính động tạo ra sức ép để các nhà sản xuất trong nước phải vận động vươn lên, nắm lấy cơ hội đổi mới hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, hạ giá thành sản phẩm. Đó là con đường duy nhất để thành công trong hội nhập đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, buộc các quốc gia, cả các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển phải cùng nỗ lực đối phó, thích ứng và giảm thiểu tác động, nói cách khác trong quá trình tổ chức sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường và phát triển bền vững đã được Liên hợp quốc thông qua. Tuy nhiên, trong các FTA trước đây, những tiêu chuẩn này ít được quan tâm, thậm chí không được đề cập. Trong các FTA thế hệ mới, các nội dung này được quan tâm, trở thành các chuẩn mực thương mại mới buộc các quốc gia phải đàm phán, chấp thuận khi trở thành thành viên của các FTA thế hệ mới. Việc đưa nội dung về lao động vào các FTA còn nhằm bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại. Nếu một nước duy trì tiêu chuẩn lao động thấp, tiền lương và các điều kiện lao động không được xác lập trên cơ sở thương lượng, thì được cho là sẽ có chi phí sản xuất thấp hơn so với nước thực hiện những tiêu chuẩn lao động cao, dẫn tới cạnh tranh không bình đẳng. Hơn nữa, việc nêu ra yêu cầu về phát triển bền vững, buộc các quốc gia phải nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất không chỉ nhìn ở lợi nhuận là sự gia tăng về giá trị, mà còn ở sự bảo vệ và tái tạo môi trường sống. Và để làm được các điều đó, buộc các quốc gia phải thể chế hóa để bảo đảm thực hiện các tiêu chuẩn lao động và môi trường. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các quốc gia đi sau trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, các quốc gia thành viên có nhiều lựa chọn trong không gian phát triển mới. Đây chính là cơ hội cho khởi nghiệp, cho sự phát triển sáng tạo các lĩnh vực, các ngành, nghề kinh doanh mới. Điều này càng đặc biệt có ý nghĩa với các thành viên đi sau trong tiến trình phát triển. Như vậy, tầm nhìn và không gian sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như chiến lược phát triển của các quốc gia trong điều kiện thực thi các FTA, nhất là FTA thế hệ mới không chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia. Chính không gian phát triển mới đặt yêu cầu mới trong tư duy, định hình chiến lược phát triển quốc gia mới phù hợp, hiệu quả trong bối cảnh thực thi các FTA thế hệ mới. Do vậy, việc tăng cường liên kết với nhau là giải pháp hữu hiệu nhằm phòng, chống những cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc khủng hoảng cơ cấu, bảo đảm an ninh kinh tế, bền vững trong tăng trưởng. Hiện nay, việc chọn phương án ký kết các FTA được coi là bước đi hợp lý nhằm củng cố quan hệ giữa các nước và tiến tới sự hợp tác ở những cấp độ cao hơn, tạo tiền đề cho những giải pháp phòng, chống khủng hoảng khả thi hơn. Mặt khác, việc hình thành các FTA có chuẩn mực cao, được dẫn dắt bởi những nền kinh tế lớn, cũng là cơ hội để các nước này khẳng định vai trò trong xây dựng và thiết lập trật tự khu vực, ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển và cạnh tranh vị thế nước lớn trên trường quốc tế. Theo PGS., TS. Vũ Văn Hà/tapchicongsan.org.vn
In bài viết Tags xuất khẩu thị trường giao dịch kinh doanh nhà đầu tư nhập khẩu lao động Tổ chức Thương mại Thế giới
THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM
Tin nổi bật
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư mới trên thị trường chứng khoán Việt Nam02/07/2022
Đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội02/07/2022
Vai trò của công nghệ tài chínhđối với thúc đẩy tài chính toàn diện02/07/2022
Tăng cường giám sát, phân bổ ngân sách đảm bảo thực hiện các cam kết khí hậu của Việt Nam01/07/2022
Giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn vay nước ngoài mới đạt 9,12% kế hoạch01/07/2022
|