Tại sao cần đổi mới sáng tạo

Bài 1 – Vì sao doanh nghiệp cần đổi mới sáng tạo  

Thế giới đang thay đổi rất nhanh chóng

Nokia, thương hiệu điện thoại hàng đầu trong những năm 1990, cũng không thể ngờ được sự bùng nổ của công nghệ hiện đại, đã bị thay thế bởi Apple và Samsung sau hơn 20 năm giữ ngôi vương trên thị trường điện thoại di động quốc tế.

Google giới thiệu chiếc xe tự lái đầu tiên vào tháng 12/2014 tại Hội nghị dành cho các nhà phát triển Google I/O và có kế hoạch bán xe tự lái ra thị trường vào năm 2020. Và rất nhiều hãng xe nổi tiếng trên thế giới có kế hoạch phát triển các thế hệ xe tự lái trên thị trường sau năm 2020 thay thế cho các dòng xe truyền thống.

Năm 2008, dịch vụ chia sẻ chỗ ở Airbnb.com ra đời tại Mỹ, giúp kết nối giữa những người cho thuê, chia sẻ chỗ ở với những người có nhu cầu như khách du lịch. Và chỉ chưa đầy 1 thập kỷ, dịch vụ chia sẻ đã bùng nổ thành nền kinh tế chia sẻ trên toàn thế giới. Theo Tom Goodwin: “Uber, công ty taxi lớn nhất thế giới, không sở hữu chiếc xe nào. Facebook, nhà sở hữu phương tiện truyền thông phổ biến nhất thế giới, không tạo ra nội dung nào. Alibaba, nhà bán lẻ có giá trị lớn nhất thế giới, không có tí hàng lưu kho nào. Và Airbnb, nhà cung cấp phòng ở cho thuê lớn nhất thế giới, không có chút bất động sản nào”.

Một số dẫn chứng nêu trên cho thấy thế giới đang phát triển rất nhanh chóng do sự dẫn dắt của cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Ngoài ra, tác động của tăng dân số, biến đổi khí hậu, phân hóa giàu nghèo giữa các nước kém/đang phát triển với các nước phát triển, thị trường việc làm quốc tế, bùng nổ của du lịch, dịch bệnh, xung đột sắc tộc, nguy cơ chiến tranh… dẫn tới tình trạng di biến động nhân khẩu, lao động rất lớn giữa các khu vực và trên toàn thế giới. Chẳng hạn, theo số liệu của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn [UNHCR] trong vòng 10 năm từ 2008- 2018, số người phải di dời lánh nạn trên thế giới đã tăng từ 43,3 triệu lên 70,8 triệu người.

Theo Tổ chức Du lịch thế giới [UNWTO], lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới năm 2018 đạt 1,4 tỷ lượt, tăng 74 triệu lượt so với năm 2017, đạt mức tăng trưởng gần 6%. Theo báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế [ILO] về lao động di cư giai đoạn 2013- 2017 cho thấy năm 2017 ước tính có 164 triệu người là lao động di cư, tăng 9% so với 150 triệu người năm 2013.

Tác động đến kinh doanh

Các yếu tố trên có tác động rất lớn đến nền kinh tế thế giới nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng, trước hết là quan hệ cung cầu, chiến lược phát triển, phương thức tổ chức quản lý, mô hình kinh doanh.

Công nghệ mới tạo ra những cách thức mới về nguồn cung để đáp ứng các nhu cầu của thị trường truyền thống trước đây. Chẳng hạn việc áp dụng công nghệ mới làm thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh taxi và khách sạn truyền thống, người sở hữu xe ô tô đồng thời là người lái xe, chủ nhà là người cho thuê phòng, không có công ty nào sở hữu tài sản. Các công ty khởi nghiệp sáng tạo nhỏ bé nhờ công nghệ mới trên nền tảng kỹ thuật số phục vụ nghiên cứu phát triển có thể vượt qua được các doanh nghiệp lớn lâu năm với tốc độ nhanh chưa từng có nhờ chất lượng, tốc độ và phương thức cung cấp sản phẩm, dịch vụ. Các doanh nghiệp lớn cũng có thể tạo nên các đột phá trong việc cung cấp các dịch vụ mới dựa trên nền tảng số hóa khách hàng, dữ liệu.

Các nhu cầu mới cho sản xuất và tiêu dùng, kỳ vọng của người tiêu dùng thay đổi đòi hỏi doanh nghiệp cần thay đổi việc sản xuất, kinh doanh, thiết kế, tiếp thị và phương thức phân phối sản phẩm. Chẳng hạn kỳ vọng của người tiêu dùng không chỉ là việc tiêu dùng sản phẩm mà còn là các trải nghiệm. Theo Esteban Kolsky, chủ tịch kiêm sáng lập của ThinkJar, một tổ chức tư vấn các chiến lược khách hàng, thời đại kỹ thuật số và sự phát triển của các hoạt động tiếp thị từ bên trong doanh nghiệp [inbound marketing] đã mở ra một cách làm kinh doanh khác biệt với những gì diễn ra trước đây.

Theo đó, khái niệm trải nghiệm của khách hàng cũng thay đổi. Chẳng hạn khách hàng không chỉ nghe doanh nghiệp quảng cáo về sản phẩm mà còn biết đến sản phẩm chủ yếu qua các kênh truyền thông xã hội và qua cộng đồng khách hàng, khách hàng tự tạo ra trải nghiệm cho họ, việc tương tác giữa doanh nghiệp với khách hàng rất phức tạp và khó dự đoán trước… Chính vì vậy Apple đã định nghĩa lại kỳ vọng của khách hàng bao gồm cả trải nghiệm đối với sản phẩm.

Chiến lược phát triển của doanh nghiệp cần thay đổi theo hướng đổi mới sáng tạo để có được lợi thế cạnh tranh. Chiến lược chỉ tập trung chủ yếu vào cắt giảm chi phí sẽ kém hiệu quả hơn chiến lược cung cấp sản phẩm và dịch vụ một cách sáng tạo.

Cơ cấu lao động, việc làm, kỹ năng của người lao động sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Nghiên cứu của Trường Oxford Martin cho biết dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có khoảng 47% số việc làm tại Mỹ có nguy cơ bị tự động hóa trong một hoặc hai thập kỷ tới, với đặc thù là quy mô triệt tiêu việc làm rộng hơn nhiều với tốc độ nhanh hơn nhiều so với những lần dịch chuyển thị trường lao động trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.

Phương thức quản lý, điều hành, tốc độ và quy mô phát triển của doanh nghiệp thay đổi nhanh chóng. Với sự phát triển của công nghệ, thời gian để doanh nghiệp thống lĩnh thị trường được rút ngắn đáng kể. Bằng việc áp dụng công nghệ và sáng tạo, một doanh nghiệp mới có thể nhanh chóng vượt qua các doanh nghiệp lâu năm trong cùng ngành hàng trong một thời gian ngắn với tốc độ và quy mô khó tưởng tưởng. Fabook mất 6 năm còn Google chỉ mất có 5 năm để đạt doanh thu 1 tỷ USD/năm.

Doanh nghiệp cần phải làm gì để tồn tại và phát triển?

Câu trả lời là doanh nghiệp cần phải đổi mới sáng tạo, vì nếu không đổi mới sáng tạo thì doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển trong một môi trường biến động nhanh, linh hoạt và có tính cạnh tranh cao như vậy.

Trước hết là việc đẩy mạnh nghiên cứu thị trường nói riêng và nghiên cứu phát triển nói chung. Nghiên cứu phát triển [R&D] là việc đầu tư, phát triển các nghiên cứu, công nghệ mới để tạo ra sản phẩm, quá trình và dịch vụ mới, có tính cải tiến để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc của thị trường tốt hơn. Hoạt động nghiên cứu và phát triển luôn được các công ty đa quốc gia [TNTCs], các công ty tiên phong về công nghệ trên thế giới quan tâm triển khai thường xuyên và liên tục.

Đầu ra đầu tiên cho hoạt động này là trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường dài hạn và ngắn hạn, doanh nghiệp cần lựa chọn được ngành “thời” để đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa nếu ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đã “hết thời”, “lỗi thời” thì doanh nghiệp cần nhanh chóng tái cấu trúc cho phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế và kinh doanh quốc tế trong giai đoạn mới.

Hai là, thực hiện chuyển đổi số trong doanh nghiệp một cách triệt để. Thông qua chuyển đổi số doanh nghiệp có thể nắm được hành vi, kỳ vọng của khách hàng, của người tiêu dùng để hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, cải tiến phương thức phân phối, bảo hành, bảo trì sản phẩm, dịch vụ. Cũng qua dữ liệu, thông tin được số hóa, doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản, nguồn nhân lực, tăng năng suất, giám sát hiệu quả hơn quá trình sản xuất và bảo trì sản phẩm. Tăng hiệu suất sử dụng tài sản và năng suất về lâu dài vẫn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Ba là, nghiên cứu và áp dụng các mô hình kinh doanh mới. Trong môi trường nền kinh tế số xu hướng chuyển đổi từ việc bán sản phẩm hữu hình sang cung cấp dịch vụ là một xu hướng rõ nét. Chẳng hạn, thay vì mua một cuốn sách hay một đĩa nhạc cụ thể, người tiêu dùng có thể mua một tài khoản từ các công ty cung cấp phiên bản số về sách và nhạc để qua đó có thể đọc cuốn sách, nghe đĩa nhạc mình thích và truy cập hàng triệu các cuốn sách, bản nhạc khác đã xuất bản. Người tiêu dùng cũng không cần thiết phải mua ô tô mà có thể sử dụng dịch vụ đi chung ô tô hoặc dịch vụ Uber, Grab.

Các doanh nghiệp ngoài việc năm bắt các xu hướng để chuyển đổi mô hình kinh doanh mới còn có thể phát triển các dịch vụ mới từ chính các ngành sản xuất kinh doanh truyền thống của mình. Chẳng hạn thông qua dữ liệu khách hàng, công nghệ và kết cấu hạ tầng của mình, các công ty trong lĩnh vực ngân hàng, viễn thông hoàn toàn có thể lấn sân sang các thị trường khác như du lịch, vận tải, chăm sóc sức khỏe…

Bốn là, tìm kiếm nguồn lực cho đổi mới sáng tạo. Thông thường các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hoặc tái cấu trúc theo xu hướng đổi mới sáng tạo thường là các doanh nghiệp trẻ, năng động, quy mô nhỏ, nắm bắt nhanh về công nghệ và xu hướng kinh doanh nhưng lại thiếu nguồn lực tài chính, dữ liệu thị trường, khách hàng vốn là điểm mạnh của các doanh nghiệp lớn kinh doanh theo mô hình truyền thống lâu năm. Nếu biết kết hợp giữa các doanh nghiệp này với nhau trên cơ sở đối tác kinh doanh chiến lược thì bài toán tìm kiếm nguồn lực cho đổi mới sáng tạo sẽ được giải quyết. Ngoài ra các Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ đổi mới công nghệ… thuộc cả khu vực công và tư cũng là các nguồn lực quan trọng cho các dự án đổi mới sáng tạo.

Bài 2: Chữ “thời” trong kinh doanh – Cơ hội và thách thức

Chữ “thời”  ở đây được hiểu là “đúng thời điểm”, “đúng lúc” sẽ tạo ra cơ hội to lớn để thành công. Ngược lại nếu không đúng thời điểm thì dù có tài giỏi đến đâu chăng nữa cũng sẽ thất bại. Nếu đi ngược xu thế, là “lỗi thời”, nếu đi lạc chu kỳ, là “lỗi nhịp”, trong tất cả các trường hợp trên, khả năng thành công sẽ không cao.

Về cách hiểu dân gian, người ta thường nói “làm ăn gặp thời” để chỉ việc mua bán, kinh doanh của một cá nhân, một tổ chức hay doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, tốt đẹp, phát đạt. Nếu cá nhân hoặc doanh nghiệp gặp thất bại thì được cho là do không gặp may, do định mệnh sắp đặt, do chưa gặp thời…

Chữ “thời” với cách dùng đó phản ánh quan điểm, tư duy xem việc kinh doanh phụ thuộc vào may rủi, thậm chí vận dụng luật nhân – quả theo triết lý nhà Phật để xét định rằng, cá nhân mà kinh doanh thành công là do tu nhân tích đức và ngược lại là do kinh doanh không gặp thời.

Tuy nhiên, trong kinh doanh, chữ “thời” đề cập được hiểu là nhân tố khách quan, giúp cá nhân, doanh nghiệp, quốc gia khởi nghiệp, kinh doanh thành công khi nó được phát hiện, phân tích trên cơ sở khoa học với sự nhạy bén, mẫn cảm và bản lĩnh trong kinh doanh.

Trong kinh doanh, để có thể thành công, tạo lập, phát triển, gia tăng lợi nhuận thì người sáng lập hay người lãnh đạo, điều hành doanh nghiệp cần thiết phải có tư duy chiến lược, có tầm nhìn “nhìn xa trông rộng” để nắm bắt và đoán định được đâu là thị trường tiềm năng trong hiện tại và tương lai. Xu hướng thị trường và nhu cầu của khách hàng đã, đang và sẽ ra sao. Phải biết phân định và phân tích được những ưu thế thuận lợi của môi trường kinh doanh, của ngành hàng, sản phẩm, dịch vụ, những điều kiện cần và đủ để khởi nghiệp, để định vị, tái cấu trúc doanh nghiệp để đi đến thành công.

Nắm bắt chữ “thời” trong kinh doanh có ý nghĩa quan trọng, mang tính quyết định sự sống còn, thành công hay thất bại. Một minh chứng cho chữ “thời” trong kinh doanh là đầu tư chứng khoán những năm 2006 – 2010. Những nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán quá sớm thì bị chôn vốn, những người rút chân ra quá trễ thì mất tiền. Những người mua chứng khoán đầu năm 2006 và bán cuối 2007 đều thành công, trong khi những người mua chứng khoán cuối 2007 và bán sau đó đều thất bại, có người giàu lên nhanh chóng và có người phá sản, trắng tay.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Cách mạng Xanh và hội nhập toàn cầu thì nhu cầu thị trường, nhu cầu sản xuất, tiêu dùng đã thay đổi rất nhanh và mạnh mẽ. Phát biểu tại Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN [WEF ASEAN 2018], Chủ tịch WEF ASEAN Klaus Schwab cho rằng so với cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba, Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư toàn diện hơn, với những công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, mạng lưới vạn vật kết nối, điện toán đám mây, robot… sẽ định hình lại phương cách sản xuất, hình thức tiêu thụ, cách thức chúng ta giao tiếp, thậm chí là cách chúng ta sống, đồng thời sẽ ảnh hưởng tới không chỉ cách con người sinh hoạt, như thế nào, mà còn “định nghĩa” lại xem chúng ta là ai.

Ông cũng khuyên những ai muốn thành công trong tương lai cần tận dụng lợi thế đến từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 một cách chủ động. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi sâu sắc cơ cấu việc làm, nghề nghiệp, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng thương mại điện tử và các mô hình kinh doanh mới.

Doanh nghiệp thành công là các doanh nghiệp có tầm nhìn dài hạn, nắm bắt đúng và trúng nhu cầu thị trường, biết được ngành, lĩnh vực nào là “thời” theo xu hướng phát triển của thị trường. Các xu hướng sau đây là các ví dụ tiêu biểu:

Phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa rất sâu đòi hỏi các doanh nghiệp phải cùng hợp tác trong chuỗi giá trị toàn cầu để cùng hưởng lợi. Trong trường hợp này, việc “khởi nghiệp” dưới hình thức các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, chuyên môn hóa cao có khả năng thành công hơn so với các doanh nghiệp lớn, kinh doanh đa ngành.

Kinh tế chia sẻ sẽ phát triển rất nhanh, các mô hình kinh doanh mới dựa trên các ứng dụng công nghệ thông tin có cơ hội rất lớn trong các lĩnh vực du lịch, chỗ ở, vận tải…

Nhu cầu sử dụng các sản phẩm sạch, sản phẩm làm đẹp, chống lão hóa để nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm sức khỏe, kéo dài tuổi thọ ngày càng tăng sẽ là dư địa rộng lớn cho các ngành thực phẩm chức năng, thực phẩm hữu cơ [organic], phẫu thuật thẩm mỹ, các sản phẩm từ tế bào gốc….

Cơ cấu lao động, việc làm, kỹ năng nghề nghiệp sẽ có thay đổi mạnh mẽ tạo cơ hội cho các ngành đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu xã hội như ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kinh doanh mạng, kinh doanh quốc tế….

Sự phát triển bùng nổ của du lịch, nhu cầu con người được tự do di chuyển chỗ  ở, việc làm, khám phá thế giới sẽ tạo cơ hội cho lĩnh vực dịch vụ hàng không, du lịch.

Nắm bắt ngành “thời” còn là cơ hội để tái cấu trúc doanh nghiệp, tránh được thất bại được báo trước trong kinh doanh. Với các doanh nghiệp từng đứng ở đỉnh cao vinh quang trong kinh doanh trong lĩnh vực địa ốc, ngân hàng, giáo dục… nhưng nay đang gặp khó khăn vì bị đối thủ cạnh tranh vượt mặt, thị phần thu hẹp, người tiêu dùng quay lưng, hàng tồn kho nhiều, công nghệ lạc hậu, doanh thu và lợi nhuận giảm sút, kinh doanh thua lỗ, nguy cơ phá sản lớn… thì các doanh nghiệp này đã đến lúc phải phân tích chữ “thời” với ngành hàng, sản phẩm và dịch vụ mà mình đang kinh doanh để có chiến lược thay đổi, tái định vị, tái cấu trúc… nhằm đáp ứng sự chuyển động của thị trường, nhu cầu của khách hàng…

Qua thực tiễn Việt Nam cho thấy, trong 10 doanh nghiệp khởi nghiệp [startup] thường có đến 8 – 9 startup thất bại, chỉ còn lại 1 – 2 startup vượt được “vũ môn” và phải đến 20 năm sau mới thành công thực sự. Không ít startup phải chấp nhận đôi ba lần thất bại trước khi gặt hái được thành công. Hơn lúc nào hết, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải biết tận dụng chữ “thời” trong kinh doanh để giảm bớt, hạn chế tối đa khó khăn, rủi ro khi lĩnh vực kinh doanh đã… hết thời.

Ngành nào là ngành “thời”? Theo người viết, có thể nhắc tới một số ngành sau đây.

Ngành dịch vụ du lịch hàng không: Trong thời gian vừa qua, tốc độ tăng trưởng khách du lịch vào Việt Nam là rất ấn tượng, với mức tăng trưởng bình quân 3 năm vừa qua trên 25%/năm. Nếu như năm 2016, khách quốc tế đến nước ta đạt 10 triệu lượt người, thì năm 2017 đạt 12,9 triệu lượt người, năm 2018 đạt mức kỷ lục 15,5 triệu lượt người và dự kiến 2019 đạt khoảng 19 triệu lượt người. Với tốc độ này, khả năng thu hút 30 triệu lượt khách quốc tế trong vòng 5 năm tới là rất khả thi.

Trong khu vực, Thái Lan là quốc gia cạnh tranh về thu hút du lịch quốc tế có chiến lược phát triển du lịch đáng khâm phục mặc dù tình hình chính trị, kinh tế không ổn định như Việt Nam. Tiêu biểu là chiến dịch cực kỳ thành công “Amazing Thailand” [Thái Lan kỳ diệu] đã giúp số lượng khách du lịch đến quốc gia này gia tăng “phi mã” qua mỗi năm. Nếu như năm 2016 khách du lịch quốc tế đến Thái Lan là 35 triệu lượt người, thì đến năm 2018 Thái Lan đã thu hút được 38 triệu lượt người và dự kiến 2019 là 41 triệu lượt người. Với nhu cầu du lịch quốc tế rất lớn như trên, cộng với nhu cầu du lịch, giải trí, nghỉ mát trong nước của người dân cũng ngày càng cao do đời sống, thu nhập tăng thì việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng và sản phẩm dịch vụ là một mảnh đất khá màu mỡ, tiềm năng.

Ngành dệt may: Sau khi Việt Nam ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các nước thì cơ hội cho một số ngành công nghiệp của Việt Nam là rất lớn, trong đó có ngành dệt may. Chẳng hạn theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU [EVTFA] vừa ký kết ngày 30/6 vừa qua, EU sẽ xóa bỏ hơn 85% dòng thuế với hàng xuất khẩu của Việt Nam ngay khi EVFTA có hiệu lực và 99% sau 7 năm thực thi. Đây là cơ hội rất tốt cho các ngành dệt may, nông thủy sản, đồ gỗ…

Theo ước tính của các chuyên gia, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may sẽ tăng trưởng trên 20% do thuế xuất khẩu hàng dệt may sang EU giảm từ bình quân là 9,6% về 0% trong vòng 7 năm. Tương tự, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương [CPTPP] dự báo cũng sẽ tạo ra “cú hích” lớn cho ngành dệt may Việt Nam trong năm 2019 và những năm tiếp theo.

Ngành ứng dụng công nghệ: Công nghệ mới và sự kết hợp nhiều công nghệ hầu hết vận hành trên nền tảng sức mạnh số tạo cơ hội vô tận cho sự phát triển mang tính đột phá để các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo “đi tắt, đón đầu”. Chẳng hạn ngành vận tải với ô tô điện, ô tô tự lái; ngành y tế với công nghệ in sinh học 3D các bộ phận cơ thể người, các máy cấy ghép vào cơ thể; xây dựng nhà thông minh, văn phòng thông minh, thành phố thông minh; dịch vụ phân tích dữ liệu lớn, lưu trữ dữ liệu, trí tuệ nhân tạo trong quản lý, quản trị, rô bốt thay thế con người, thực tế tăng cường, an ninh mạng…

Các mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ số cũng tạo ra các lĩnh vực kinh doanh mới, tiềm năng chưa từng xuất hiện trước đây như việc chia sẻ và kết nối tài sản, con người và dữ liệu, tạo ra cách thức sử dụng dịch vụ và tiêu dùng hàng hóa hoàn toàn mới. Mặc dù ngành kinh doanh ứng dụng công nghệ có hàm chứa rủi ro, nhưng khả năng sinh lời rất cao và với mức độ tăng trưởng rất khó tưởng tượng.

Ngành dược phẩm [các sản phẩm thực phẩm chức năng và đông dược]: Cùng với thu nhập và đời sống ngày càng cao thì nhu cầu sử dụng các sản phẩm sạch, sản phẩm làm đẹp, chống lão hóa để nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm sức khỏe, kéo dài tuổi thọ ngày càng gia tăng. Đây là dư địa rộng lớn cho các ngành thực phẩm chức năng, thực phẩm hữu cơ [Organic], các sản phẩm từ tế bào gốc… đáp ứng tiêu chuẩn “bio”, có nghĩa là có nguồn gốc từ thiên nhiên, không phân bón hóa học, không thuốc trừ sâu, không thuốc diệt cỏ, không có dư lượng kháng sinh…

Nhu cầu sử dụng các sản phẩm thực phẩm chức năng và đông dược tăng nhanh, có thể nói là không có giới hạn do chính công dụng hữu ích của nó và theo xu hướng tiêu dùng nêu trên. Thực phẩm chức năng và đông dược tích cực hỗ trợ chức năng của cơ thể con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm bớt nguy cơ mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học, các sản phẩm thuốc đông dược. Công dụng của thực phẩm chức năng đã được nghiên cứu ở các nước phát triển trên thế giới trong đó có Nhật Bản từ những năm 80, sau đó dần phát triển ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Canada, Úc, New Zealand, Trung Quốc…

Theo Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam, hiện nay nhu cầu sử dụng thực phẩm chức năng liên tục tăng. Nếu như năm 2000 mới chỉ có khoảng 60 sản phẩm thực phẩm chức năng của 15 cơ sở nhập khẩu 100% vào Việt Nam, thì đến nay cả nước đã có tới 3.600 doanh nghiệp tham gia sản xuất và kinh doanh với khoảng 6.800 sản phẩm đang lưu hành, trong đó sản xuất trong nước trên 70% và nhập khẩu gần 30%.

Ngành nông nghiệp sạch cũng có tiềm năng lớn bởi nhu cầu thực phẩm an toàn hiện nay ở nước ta và các nước trên thế giới đều rất lớn. Nhu cầu ăn ngon, ăn sạch, sử dụng thực phẩm hữu cơ bảo đảm sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, tăng chất lượng cuộc sống… ngày càng được con người quan tâm hướng đến. Việt Nam là nước nông nghiệp, nông sản rất phong phú, đa dạng, vì thế tiềm năng đầu tư vào ngành trồng trọt, chế biến nông sản sạch đang có triển vọng phát triển rất lớn.

Tóm lại, việc nắm bắt đúng lúc “thời”, “thời điểm”, “thời cơ” trong kinh doanh là yếu tố hàng đầu, tiên quyết cho sự thành công của kinh doanh. Doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, vận dụng và thích ứng nhanh với những thay đổi của thị trường, với nhu cầu của khách hàng. Cần nhận diện được sản phẩm nào, ngành hàng nào đã lỗi thời, người tiêu dùng đang quay lưng, để có kế hoạch chuyển đổi, tái cấu trúc cho phù hợp để tồn tại và tiếp tục phát triển. Nếu chưa có sản phẩm, dịch vụ gì mới, khác biệt so với các công ty cùng ngành nghề hiện đang hoạt động trên thị trường thì chưa nên khởi nghiệp. Nếu khởi nghiệp trong lĩnh vực đã hết thời thì áp lực vô cùng lớn cho bán hàng, doanh thu và lợi nhuận hết sức khó khăn, cái kết thất bại đã được báo trước.

Xin nhắc lại lời của  Nguyễn Trãi viết về chữ “thời” trong bài “Lại thư dụ Vương Thông” thay cho lời kết: “Tôi thường xem Kinh Dịch 384 hào mà cốt yếu là ở chữ “thời”, cho nên người quân tử theo thời thông biến, nghĩa chữ “thời” to tát sao!” và “Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn, mất thời không thế thì mạnh hoá ra yếu, yên thành ra nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong không trở bàn tay”.

Bài 3: Doanh nghiệp thành công: Hiểu như thế nào cho đúng?

Có ý kiến cho rằng đó là doanh nghiệp có số vốn kinh doanh lớn, có nhiều công ty con, có mạng  lưới bán hàng rộng, có thương hiệu trên thị trường. Hoặc doanh nghiệp thành công là doanh nghiệp có doanh số lớn, nộp thuế nhiều, có số lượng cán bộ nhân viên, người lao động đông đảo. Cũng có ý kiến cho rằng doanh nghiệp thành công phải là doanh nghiệp kinh doanh có thị phần cả ở thị trường trong nước và ngoài nước. Có ý kiến nhấn mạnh đến lợi nhuận, cho rằng chỉ cần kinh doanh có lãi, có lợi nhuận là doanh nghiệp đã thành công.

Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khi một doanh nghiệp khởi nghiệp có ý tưởng kinh doanh đổi mới sáng tạo, có đề án kinh doanh khả thi, đã thành lập và vận hành doanh nghiệp và đã có sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Trong trường hợp này doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới – sáng tạo đã được coi là thành công chưa?

Vậy “doanh nghiệp thành công” hiểu thế nào cho đúng?

Theo Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tài sản và tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên trị trường. Còn kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy có thể hiểu ngắn gọn doanh nghiệp là là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Đây là khái niệm trên phương diện pháp luật, còn trên thực tế, có những doanh nghiệp hoạt động phi lợi nhuận.

Mặc dù hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào, và/hoặc không phải trong bất cứ giai đoạn hoạt động nào doanh nghiệp cũng đạt được mục tiêu lợi nhuận. Nếu không thu được lợi nhuận thì doanh nghiệp sẽ thua lỗ, ngừng hoạt động và thậm chí phá sản, chấm dứt hoạt động đầu tư kinh doanh. Như vậy xét theo nghĩa hẹp về khía cạnh mục tiêu kinh doanh có thể hiểu doanh nghiệp thành công là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, cụ thể là bán được hàng hóa/dịch vụ, có lãi, có lợi nhuận. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn doanh nghiệp thành công có những đặc điểm riêng.

Các đặc điểm của doanh nghiệp thành công

Khái niệm doanh nghiệp thành công nêu trên chỉ xét về khía cạnh mục tiêu kinh doanh vị lợi [vì lợi nhuận], còn xét trong phạm vi rộng hơn, một doanh nghiệp thành công có ít nhất các đặc điểm như sau:

Có chiến lược kinh doanh đúng hướng. Chiến lược kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công của doanh nghiệp, bảo đảm cho doanh nghiệp tiếp cận được chính xác nhu cầu và xu thế phát triển của thị trường trong cả ngắn hạn và dài hạn. Mặc dù lợi nhuận là quan trọng nhưng thực tế cho thấy chiến lược kinh doanh mới là yếu tố quyết định thành công và thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường. Chiến lược kinh doanh thể hiện trước hết ở sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. Ngoài ra chiến lược kinh doanh phải xác định được năng lực cốt lõi của doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ khác biệt thỏa mãn kỳ vọng, trải nghiệm của khách hàng. Dù có bao gồm những nội dung thế nào thì chiến lược kinh doanh, cụ thể là mục tiêu chiến lược kinh doanh đều phải hướng tới mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất.

Có tư duy đổi mới – sáng tạo. Đây là yếu tố sống còn trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa. Chỉ có với tư duy đổi mới sáng tạo thì doanh nghiệp mới có khả năng phát triển nhanh, bền vững; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới, khác biệt; tạo ra mô hình, phương thức kinh doanh mới, độc đáo để tạo ra và chiếm lĩnh thị trường, thu lợi nhuận siêu ngạch. Tư duy đổi mới – sáng tạo giúp doanh nghiệp sáng tạo ra những gì chưa từng có, những điều chưa ai từng nghĩ đến, những khác biệt lớn lao để tạo nên sự đột phá chưa từng có từ trước đến bây giờ.

Có nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên môn hóa sâu, có năng lực phối, kết hợp hiệu quả bảo đảm cho việc đưa các ý tưởng đổi mới – sáng tạo, chiến lược, kế hoạch kinh doanh triển khai thành công trên thực tế, bảo đảm sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất, ngoài ra còn có thể định hướng cho sự phát triển của thị trường trong tương lai.

Có công nghệ, quy trình sản xuất – kinh doanh hiện đại. Việc nắm bắt công nghệ tiên tiến, quy trình sản xuất hiện đại và áp dụng các công nghệ, quy trình đó vào sản xuất kinh doanh bảo đảm cho doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao, mẫu mã phong phú đáp ứng nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng.

Có sản phẩm, dịch vụ đạt chất lượng chuẩn quốc tế, có thương hiệu được ghi nhận trên thị trường quốc tế. Sản phẩm, dịch vụ đạt chuẩn chất lượng quốc tế, đặc biệt là các sản phẩm thực phẩm, thực phẩm chức năng, dược phẩm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có “giấy thông hành” để vươn ra thị trường quốc tế.

Có năng lực liên kết, hợp tác. Với sự chuyên môn hóa cao và phân công lao động ngày càng sâu sắc dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, mỗi doanh nghiệp trở thành một khâu, mắt xích của chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy doanh nghiệp cần có năng lực liên kết, hợp tác, tương tác với đối tác, khách hàng và cả với đối thủ cạnh tranh để cùng thành công [win-win]. Đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp thì cần có sự tư vấn, giúp đỡ của người hướng dẫn có kinh nghiệm [mentor], của đối tác, của những người cùng chí hướng vì trong kinh doanh cũng dựa trên nguyên tắc: “muốn đi nhanh thì đi một mình, muốn đi xa thì phải đi cùng nhau”.

Các yếu tố trên trong mối quan hệ tương quan sẽ tạo ra văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp có tính chất đặc trưng của từng doanh nghiệp.

Để hiểu đúng thế nào là một doanh nghiệp thành công có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thành lập và vận hành một doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới – sáng tạo. Trong cách nhìn hẹp đó là các doanh nghiệp triển khai thành công chiến lược, kế hoạch kinh doanh để đạt mục tiêu bán hàng, tăng doanh số, thu được lợi nhuận lớn nhất có thể. Trong cách nhìn rộng hơn đó là các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh phù hợp với trào lưu, xu thế phát triển mới của thị trường; có năng lực tổ chức kinh doanh trên cơ sở ứng dụng công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại để tạo ra các sản phẩm có thương hiệu, có hàm lượng chất xám cao, khác biệt đáp ứng và định hướng thị trường; thu được lợi nhuận cao và tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.

Bài 4: Con đường nào để khởi nghiệp đổi mới sáng tạo?

Qua tổng kết, sau đây là những bước quan trọng để thực hiện khởi nghiệp đổi mới – sáng tạo thành công.

Trước hết, cần xây dựng đề án kinh doanh khả thi, mà trước hết là nuôi dưỡng đam mê, khát vọng làm giàu.

Trong thời đại ngày nay hội tụ đầy đủ các điều kiện để tất cả mọi người, nhất là thế hệ trẻ có thể và có điều kiện nuôi dưỡng khát vọng làm giàu thông qua khởi nghiệp. Đó là toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế phổ biến và diễn ra ngày càng sâu sắc; sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học; vai trò, vị trí của doanh nghiệp doanh nhân được khẳng định và đề cao trong xã hội…

Thứ hai, trang bị cho bản thân phẩm chất, kỹ năng, kiến thức của doanh nhân

Từ điển Collin định nghĩa: “Doanh nhân là người chủ hoặc người quản lý doanh nghiệp sử dụng sự mạo hiểm và sáng kiến để tạo ra lợi nhuận”. Khái niệm này nêu lên hai đặc điểm/phẩm chất cơ bản của doanh nhân và đòi hỏi muốn trở thành doanh nhân thì người khởi sự kinh doanh phải chấp nhận mạo hiểm và có sáng kiến. Mạo hiểm ở đây được hiểu là mạo hiểm về tài chính, bạn có thể mất tiền, tài sản một phần hoặc tất cả nếu kinh doanh không thành công. Mạo hiểm còn ở nghĩa bạn phải dám chấp nhận thất bại, vượt qua chính mình.

Còn sáng kiến chính là các ý tưởng kinh doanh, cách vận hành doanh nghiệp để tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ, cách thức bán hàng nhằm tạo lợi nhuận tối đa. Từ khát vọng làm giàu cho đến việc quyết định khởi nghiệp chính là thể hiện bản lĩnh của doanh nhân vì bạn sẽ gặp rất nhiều cản trở trước quyết định đó.
Nếu bạn đã có khát vọng, ước mơ làm giàu, thì đừng quá lo lắng đến các trở ngại trên con đường kinh doanh, chẳng hạn sự lo lắng về thất bại, về thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm, sự cản trở của gia đình, người thân, về việc liệu kinh doanh có quá muộn không [Ray Krok gây dựng Mc Donald’s khi đã 60 tuổi], mà quan trọng là phải kiên trì nuôi dưỡng ước mơ đó, tìm cảm hứng cho ước mơ của bạn từ các cuốn sách, các tấm gương doanh nhân trên thế giới. Bạn cần biết rõ điểm mạnh, điểm yếu, sở trường, sở đoản của bản thân và tìm các biện pháp khả thi để khắc phục các hạn chế của mình.

Do kinh doanh là một nghề, hơn nữa là một nghề khó, vì vậy nếu người khởi nghiệp chưa từng kinh doanh hoặc tham gia vào các công đoạn kinh doanh của doanh nghiệp thì phải được trang bị các kỹ năng, kiến thức về kinh doanh, quản lý, vận hành một doanh nghiệp hoặc một hoạt động kinh doanh cụ thể.

Trước khi kinh doanh độc lập, trước hết bạn nên trở thành nhân viên của một doanh nghiệp để làm quen với môi trường kinh doanh, học hỏi cách thức vận hành, quản lý, cơ cấu tổ chức của một doanh nghiệp. Đồng thời cần tham gia các khóa đào tạo về quản lý, quản trị doanh nghiệp, khởi sự kinh doanh chuyên đề. Nếu bạn chưa học qua các trường lớp về kinh tế, kinh doanh thì cần tham gia các khóa đào tạo dài hoặc ngắn hạn về những vấn đề chung của kinh doanh.

Nếu bạn khởi nghiệp theo mô hình kinh doanh mới thì nhất thiết bạn phải có kiến thức về công nghệ chuyên ngành, nhất là công nghệ thông tin, ngoại ngữ. Việc tự nghiên cứu, học tập kinh nghiệm kinh doanh từ những thành công và thất bại của các doanh nhân dưới các hình thức thích hợp [như học tập online, tham gia các câu lạc bộ kinh doanh, khởi nghiệp, tham gia các hội thảo, hội nghị, hội chợ triển lãm…] cũng rất quan trọng.

Thứ ba, có ý tưởng kinh doanh sáng tạo và lựa chọn được ý tưởng kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường

Ý tưởng kinh doanh hay, độc đáo, sáng tạo là khởi đầu của kinh doanh thành công, vì vậy người khởi sự kinh doanh cần dành thời gian xứng đáng cho việc suy nghĩ về các ý tưởng kinh doanh và lựa chọn ý tưởng kinh doanh.

Để có ý tưởng kinh doanh hay cũng không phải là vấn đề quá khó. Caspian Woods đã gợi ý 11 cách để nghĩ ra ý tưởng kinh doanh hay, cụ thể một số các gợi ý như sau:

– Ý tưởng đó không nhất thiết phải là của bạn. Nếu bạn không phải là người có khả năng nghĩ ra các ý tưởng hay, nhưng lại có năng lực của người bán hàng bẩm sinh, bạn có thể kết hợp với những người nghiên cứu có ý tưởng xuất sắc.

– Tư duy theo hướng khác: Hãy mở rộng mạng lưới của mình khi tìm kiếm các ý tưởng, chẳng hạn tìm kiếm ý tưởng ở nước ngoài hoặc “nhập khẩu”  ý tưởng thành công ở nước khác. Công ty sửa chữa ô tô Kwik-Fit của Tom Farmer thành lập sau khi ông đi nghỉ  ở Mỹ. Năm 1999, ông bán lại công ty cho tập đoàn Ford.

– Tìm kiếm sự thay đổi: Sự thay đổi có thể là một luật mới ra đời, thay đổi thói quen mua sắm của khách hàng, có một ngành kinh doanh hoặc công nghệ mới. Ducan Bannantyne đã kiếm được 30 triệu bảng Anh đầu tiên khi cựu Thủ tướng Anh Magaret Thatcher ban hành quyết định thuê các doanh nghiệp tư nhân chăm sóc người già. Ông đã bán hết mọi thứ cộng với ba thẻ tín dụng để mua nhà dưỡng lão đầu tiên để kinh doanh.

– Chú ý lắng nghe khách hàng: Đôi khi chỉ một lời nói, lời khuyên hay thậm chí phàn nàn của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ, có thể giúp bạn tìm được ý tưởng kinh doanh mang lại lợi nhuận cao.

Hãy là người dẫn đầu trong cuộc chơi: Nếu bạn định dấn thân vào một ngành kinh doanh phổ biến, hãy bảo đảm rằng trong thời gian tới bạn sẽ trở thành người đứng đầu trong ngành kinh doanh đó.

– Bắt đầu với những gì bạn biết: Rất ít người bắt đầu kinh doanh với một ý tưởng mới, trước đó không ai nghĩ ra và rất ít người muốn ở trong một ngành mà mình không biết gì. Dù tiếp cận thị trường với long nhiệt tình và tầm nhìn mới mẻ là điều tốt, nhưng bạn cũng cần trao đổi ý tưởng của mình với những người gạo cội trong ngành đó.

– Cạnh tranh có thể là điều tốt: Sai lầm thường thấy là cố gắng tìm kiếm ngành kinh doanh ít cạnh tranh. Nhưng sẽ tốt hơn nếu bạn bước chân vào một ngành kinh doanh cạnh tranh gay gắt và cố gắng làm một điều gì đó thật sự sáng tạo.

Ý tưởng kinh doanh dù có hay, độc đáo đến mấy nhưng khi triển khai trên thực tế sẽ “chết yểu” nếu không phù hợp với nhu cầu thị trường và thiếu tầm nhìn dài hạn. Chẳng hạn nếu bạn không xác định được nhu cầu thị trường trong dài hạn, bạn sẽ kinh doanh vào những ngành tại thời điểm khởi nghiệp thị trường có nhu cầu cao, nhưng sẽ “hết thời” trong thời gian ngắn, lúc đó tình hình kinh doanh sẽ khó khăn, lợi nhuận thấp, thậm chí phá sản. Vì vậy lựa chọn ý tưởng kinh doanh phù hợp với nhu cầu thị trường kể cả trong ngắn hạn và dài hạn là điều kiện tiên quyết để khởi nghiệp thành công.

Biến ý tưởng thành đề án, kế hoạch kinh doanh khả thi

Đề án, kế hoạch kinh doanh khả thi cần bảo đảm các yếu tố cơ bản sau đây:

Một là, đề án phải mang tính đổi mới sáng tạo. Ví dụ,  muốn khởi nghiệp trong ngành nào đó thì phải xem trong đề án kinh doanh của mình có cái gì khác với các công ty cùng ngành đã làm, đang làm. Hoặc mô hình kinh doanh mình lựa chọn là mô hình kinh doanh hoàn toàn mới theo sự phát triển của khoa học, công nghệ. Yếu tố sáng tạo và khác biệt là yếu tố chủ chốt của đề án kinh doanh khả thi.

Hai là, muốn xây dựng đề án kinh doanh khả thi cần phải hiểu chữ “thời” trong kinh doanh, kinh doanh trong ngành “thời”. Nếu chúng ta kinh doanh trong một ngành “hết thời” thì sẽ vô cùng khó khăn, bởi vì nhu cầu thị trường không nhiều mà quá nhiều dự  án, doanh nghiệp đã và đang hoạt động trong ngành đó rồi, dẫn tới hàng tồn kho, ngâm vốn vào hàng hóa và cơ sở vật chất.

Ba là, hoạch định chiến lược kinh doanh và kế hoạch kinh doanh. Hoạch định chiến lược kinh doanh là việc xác định các mục tiêu chủ yếu, dài hạn của doanh nghiệp để từ đó phân bổ các nguồn lực và phương thức thực hiện các mụa tiêu đó. Hoạch định chiến lược kinh doanh trước hết phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường về cung cầu sản phẩm, dịch vụ, đối thủ cạnh tranh, xu thế phát triển của thị trường để xác định được lộ trình, bước đi trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định quy mô, phạm vi kinh doanh, địa bàn hoạt động; các nguồn lực [nhân lực, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật] cho kinh doanh; cách thức tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, xây dựng các kênh phân phối, quản lý khách hàng, quản trị bán hàng, marketing, xây dựng thương hiệu, quản trị rủi ro… Cần lưu ý là không có chiến lược kinh doanh nào dù cho thành công cũng tồn tại mãi mãi. Sự phát triển nhanh chóng của thị trường đòi hỏi chiến lược kinh doanh phải được thường xuyên rà soát, cập nhật, điều chỉnh. Vì vậy bộ phận nghiên cứu thị trường, nghiên cứu phát triển [R&D] của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng.

Bước tiếp theo, cần xây dựng kế hoạch kinh doanh cụ thể để thực hiện chiến lược kinh doanh đó. Kế hoạch kinh doanh cụ thể, chi tiết, khả thi trước hết sẽ là công cụ quan trọng để gọi vốn đầu tư từ ngân hàng, từ cổ đông và các nguồn khác. Theo Caspian Woods, để xây dựng kế hoạch kinh doanh đúng hướng cần phải nắm chắc 3 quy tắc sau đây:

– Kế hoạch kinh doanh viết cho ai? Nếu bạn là người khởi sự kinh doanh, điều hành doanh nghiệp, chính bạn phải là người viết kế hoạch kinh doanh và kế hoạch kinh doanh được viết ra để phục vụ cho chính bạn. Kế hoạch kinh doanh được xây dựng từ ý tưởng kinh doanh mà bạn lựa chọn, vì thế đây là quá trình bạn suy nghĩ một cách xuyên suốt, có hệ thống việc làm sao chuyển từ ý tưởng kinh doanh thành hoạt động kinh doanh cụ thể, thành lập và vận hành doanh nghiệp trên thực tế.

Bên cạnh đó, độc giả quan trọng thứ hai là người cấp vốn tiềm năng cho kế hoạch kinh doanh. Người cấp vốn ở đây có thể là ngân hàng, quỹ  đầu tư mạo hiểm, nhà đầu tư, hợp tác kinh doanh…  Đề án, kế hoạch kinh doanh trở thành công cụ  để huy động vốn, vì vậy phải có tính thuyết phục từ căn cứ xây dựng kế hoạch đến cách thức tổ chức kinh doanh, sản phẩm đầu ra, dự kiến doanh thu, chi phí, lợi nhuận, khả năng thu hồi vốn, cách thức tổ chức điều hành công việc kinh doanh của bạn.

– Không quá sa đà vào chi tiết. Kế hoạch kinh doanh chỉ phác thảo những nội dung cốt lõi, không nên sa đà vào chi tiết vì nếu sa đà vào chi tiết bạn sẽ sa lầy vào những tiểu tiết không quan trọng mà những nội dung này có thể thực hiện sau khi quản lý, điều hành doanh. Trên thực tế việc kinh doanh khó có thể lượng hóa kết quả chính xác giống như một môn khoa học. Vì vậy, kế hoạch kinh doanh cần tập trung xác định mục tiêu, chiến lược, thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, huy động nguồn lực, cách thức quản lý, tổ chức kinh doanh. Tóm lại, kế hoạch kinh doanh phải biến ý tưởng kinh doanh trở thành hiện thực, bán được hàng và có lợi nhuận.

– Luôn cập nhật kế hoạch kinh doanh. Ngay khi viết bản kế hoạch kinh doanh thì nó đã trở nên lạc hậu, vì thực tiễn kinh doanh luôn thay đổi. Những doanh nghiệp thành công là những doanh nghiệp luôn thích ứng với những thay đổi của khách hàng và thị trường để điều chỉnh kế hoạch kịp thời.

Lập công ty

Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, có các loại hình doanh nghiệp sau đây để các nhà khởi nghiệp có thể lựa chọn: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh. Mỗi loại hình doanh nghiệp có ưu điểm và hạn chế riêng. Lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp với khả năng, tiềm năng, mục tiêu, chiến lược kinh doanh, cách thức tổ chức kinh doanh, sở trường của bạn cũng có ý nghĩa quan trọng đối với thành công trong sự nghiệp khởi nghiệp kinh doanh của bạn. Vì thế người khởi nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định thành lập doanh nghiệp theo loại hình nào.

Thực tế ở Việt Nam cho thấy việc thành lập công ty cổ phần có vai trò quyết định trong việc xây dựng và phát triển thành công, bền vững một doanh nghiệp với các lý do sau đây:

– Bản chất của công ty cổ phần có tính chất mở trong việc thu hút vốn, không giới hạn về số lượng, thời gian, đối tượng để huy động vốn nên nếu công ty cổ phần hoạt động hiệu quả thì sẽ dễ dàng tăng vốn để trở thành công ty lớn thông qua việc huy động vốn từ cổ đông hiện hữu hoặc phát hành ra công chúng.

– Cơ cấu tổ chức, các quy định về quản trị, quản lý của công ty cổ phần chặt chẽ so với các loại hình khác. Đặc biệt, tất cả các cổ đông đều có quyền giám sát, góp ý cho sự phát triển chung của công ty, giúp công ty cổ phần hoạt động đúng khuôn khổ, chuyên nghiệp hơn sơ với các loại hình công ty khác.

– Chế độ kế toán, công bố thông tin được quy định chặt chẽ, bảo đảm cho quá trình kinh doanh của công ty cổ phần được thực hiện một cách bền vững, công khai, minh bạch hơn. Điều này giúp công ty hoạt động hiệu quả, chuyên nghiệp, nâng cao khả năng thu hút nguồn vốn cho hoạt động.

– Công ty cổ phần dễ dàng đăng ký trở thành công ty đại chúng, từ đó có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Điều này tạo điều kiện cho công ty huy động nguồn vốn, xây dựng hình ảnh, uy tín, phát triển thương hiệu.

Bên cạnh những ưu điểm thì loại hình doanh nghiệp dưới hình thức công ty cổ phần cũng có những hạn chế như: Các cổ đông sáng lập có thể mất quyền kiểm soát công ty do bị mua thâu tóm; việc quản lý và điều hành công ty cổ phần phức tạp nếu số lượng cổ đông lớn, có thể phân hóa thành nhóm các cổ đông đối kháng nhau về lợi ích; khó giữ bí mật thông tin do yêu cầu phải công khai thông tin về kinh doanh, tài chính cho các cổ đông.

Có thể lựa chọn công ty cổ phần không phải là lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp trên thế giới, tuy nhiên, thực tế cho thấy ở Việt Nam việc thành lập công ty cổ phần để khởi nghiệp là một lựa chọn ưu tiên do khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là về nguồn vốn kinh doanh, kể cả từ khi mới khởi nghiệp và trong suốt quá trình phát triển doanh nghiệp.

Xây dựng thương hiệu và tiếp thị

Đã có đề án kinh doanh khả thi, đã thành lập công ty, đã có kế hoạch kinh doanh cụ thể, tuy nhiên để kinh doanh thành công vẫn là câu hỏi lớn cho cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Có rất nhiều việc phải làm trong quản trị kinh doanh để biến chiến lược, kế hoạch kinh doanh khả thi thành hiện thực, nghĩa là doanh nghiệp phải bán được hàng, có doanh thu, lợi nhuận ổn định, bền vững, ngày càng cao. Khi đó thì khởi nghiệp đổi mới – sáng tạo mới thành công. Một trong những việc phải làm có ý nghĩa quan trọng là xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, công ty và tiếp thị sản phẩm, dịch vụ.

Thương hiệu được xem là một trong những tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp, đại diện cho bộ mặt doanh nghiệp. Trong thực tế, doanh nghiệp thường được khách hàng, người tiêu dùng nhận diện và gọi bằng tên thương hiệu. Và từ đó tên thương hiệu và tên doanh nghiệp trở thành một và hoàn toàn giống nhau. Thương hiệu của doanh nghiệp mang theo nó một giá trị bằng tiền trên thị trường chứng khoán, ảnh hưởng đến giá trị cổ đông khi nó tăng và giảm. Thương hiệu và tiếp thị [hay marketing] có vai trò quan trọng quyết định doanh số bán sản phẩm, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp.

Dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, thương hiệu và tiếp thị cũng cần thay đổi theo xu hướng này. Thương hiệu 4.0 và tiếp thị 4.0 hay nói cách khác là thương hiệu và tiếp thị số cần chú trọng một số vấn đề sau:

– Doanh nghiệp cần nắm chắc các nội dung chuyển đổi từ thương hiệu và tiếp thị trước đây sang thương hiệu và tiếp thị 4.0 trong việc xây dựng thương hiệu và tiếp thị của doanh nghiệp. Cụ thể nếu như trước đây thương hiệu và tiếp thị tập trung vào sản phẩm, khách hàng và giá trị thì marketing 4.0 tập trung vào tương tác, kết nối đến từng khách hàng trong mối quan hệ xã hội. Trải nghiệm khách hàng, tương tác cộng đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển thương hiệu và tiếp thị.

– Thương hiệu, tiếp thị cần theo xu thế phát triển của thị trường bằng chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt nhất. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ không chỉ từ những tuyên bố từ phía doanh nghiệp mà phải thể hiện bằng các chứng chỉ, chứng nhận quốc tế có uy tín và qua trải nghiệm, phản ánh, tương tác của khách hàng, người tiêu dùng với doanh nghiệp và với cộng đồng xã hội.

– Doanh nghiệp cần sử dụng tối đa các công cụ để xây dựng thương hiệu, tiếp thị trên internet, mạng xã hội [Facebook, Twitter, Linkedin, Google+…] kết hợp với các công cụ truyền thống.

Tóm lại, thương hiệu và tiếp thị gắn với con người, hướng tới con người, tương tác với con người, nói rộng hơn là gắn với các giá trị cộng đồng, sử dụng các ưu việt của công nghệ, nhất là công nghệ thông tin trong thời đại kỷ nguyên số và áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế là lời giải cho bài toán bán hàng của doanh nghiệp.

Vạn sự khởi đầu nan

Theo các chuyên gia kinh tế, tỷ lệ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thành công sau 5 năm chỉ từ 5-10%. Rất nhiều doanh nghiệp thất bại ngay trong năm khởi nghiệp đầu tiên.

Khảo sát của CBinsights đã chỉ ra 20 nguyên nhân khởi nghiệp thất bại, trong đó các nguyên nhân hàng đầu là: Không phù hợp với nhu cầu thị trường [42%], thiếu vốn [29%], lựa chọn đội ngũ không phù hợp [23%], không có lợi thế cạnh tranh [19%], định giá, chi phí [18%], sản phẩm không thân thiện với người dùng [17%], thiếu mô hình kinh doanh phù hợp [17%], marketing kém [14%], không quan tâm đến ý kiến khách hàng [14%], đưa sản phẩm ra thị trường sai thời điểm [13%]…

Ngoài ra, có có những nguyên nhân khác có tác động trực tiếp đến thất bại khi khởi nghiệp:

– Tâm lý e ngại việc ý tưởng khởi nghiệp không phải “độc nhất vô nhị” và dễ bị vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.

– Không có ý tưởng sáng tạo, khác biệt, đột phá. Khởi nghiệp theo tâm lý đám đông, sao chép ý tưởng người khác đã thành công.

– Thiếu kiên nhẫn, kiên trì theo đuổi mục tiêu, ý tưởng kinh doanh.

– Có ý tưởng kinh doanh nhưng không am hiểu, thiếu kiến thức về thị trường, nhu cầu xã hội, kinh nghiệm xây dựng mô hình quản lý, kinh doanh, cách thức vận hành doanh nghiệp.

– Không có vốn đầu tư ban đầu hoặc cho rằng khởi nghiệp mà không cần đồng vốn nào. Không tìm được nhà đầu tư vào doanh nghiệp.

– Thiếu người hướng dẫn, tư vấn [các startup thành công, các mentor].

– Không nhận được từ hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, các quỹ đầu tư, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực…

– Môi trường kinh doanh còn ẩn chứa nhiều rủi ro, tính minh bạch kém. Tình trạng vi phạm bản quyền, hàng giả, hàng nhái… ảnh hưởng tiêu cực tới khởi nghiệp.

Bài 5: Nguồn lực nào cho đổi mới sáng tạo?

Tuy nhiên, theo báo cáo năng lực canh tranh toàn cầu năm 2018 được Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố cho thấy, Việt Nam xếp thứ 77/140 quốc gia và vùng lãnh thổ về năng lực cạnh tranh, tụt 3 bậc so với năm 2017, trong 12 trụ cột đánh giá, Việt Nam đạt điểm thấp nhất ở trụ cột năng lực sáng tạo.

Xác định rõ vai trò quan trọng của đổi mới sáng tạo trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, Nghị quyết số 19 của Chính phủ đã khẳng định Việt Nam cần phải “nỗ lực cải cách mạnh mẽ, toàn diện cả về quy mô và cường độ trên tất cả các lĩnh vực”. Theo đó, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao làm đầu mối theo dõi việc cải thiện các chỉ số về đổi mới sáng tạo. Đưa đổi mới sáng tạo trở thành một trong những mục tiêu tăng trưởng phát triển thiên niên kỷ đến năm 2030.

Tuy nhiên, đổi mới sáng tạo phải bắt đầu từ đâu? Cơ chế nào để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo có hiệu quả? Đó là những vấn đề lớn đặt ra cho cả doanh nghiệp và các bộ, ngành, địa phương trước sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ hiện nay.

Về phía nhà nước

Chủ trương, quan điểm quyết liệt, khích lệ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo các cấp từ Trung ương đến địa phương luôn bày tỏ nhận thức tích cực và quan điểm khích lệ đối với khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Theo đó, một loạt các chính sách và các hoạt động hỗ trợ đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc, như Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.

Bên cạnh đó, để đáp ứng những đặc thù của cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, vài năm gần đây từ cấp quốc gia đến một số địa phương đã hình thành những tổ chức, nhằm tư vấn, hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo… Ngay trong năm 2019, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các tổ chức hữu quan để xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của Việt Nam, dự kiến đặt tại khu công nghệ cao Hòa Lạc.

“Chủ trương đã rõ, yêu cầu đã rất cấp thiết, từ đổi mới, bứt phá về tư duy, từng doanh nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp phải hành động ngay, kịp thời, quyết liệt và khẩn trương, để có thể đạt kết quả cụ thể về đổi mới sáng tạo trong từng ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải là một trung tâm đổi mới sáng tạo để thành công”, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh và khẳng định tại diễn đàn CEO 2019 với chủ đề “Doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo: Bứt phá từ tư duy đến hành động”.

Tạo điều kiện phát triển các Quỹ đầu tư mạo hiểm [venture capital]

Hiểu một cách đơn giản, quỹ đầu tư mạo hiểm là một tập hợp số tiền vốn của các nhà đầu tư được dùng để đầu tư vào các công ty mới thành lập, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng lớn.

Để thực hiện được mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, đến nay Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng và thực hiện nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và các startup phát triển, đồng thời cải cách thể chế về đầu tư mạo hiểm để các dòng vốn đầu tư mạo hiểm có thể tìm đến các startup một cách thuận lợi nhất. Thu hút đầu tư mạo hiểm sẽ trở thành một trọng tâm thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian tới.

Nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN, ông Nguyễn Quân đã bày tỏ quan điểm trong một bài viết: “Quốc gia khởi nghiệp là quốc gia dám đầu tư cho hoạt động đầu tư mạo hiểm, chấp nhận rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh, sẵn sàng đầu tư cho những ý tưởng sáng tạo cho dù không đảm bảo chắc chắn nó sẽ thành công. Văn hóa của nền kinh tế ở quốc gia khởi nghiệp nằm ở ba yếu tố then chốt: có sáng kiến, chấp nhận rủi ro và tốc độ. Trong đó, nhà nước cần tạo dựng môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được sinh ra và phát triển, hay nói cách khác là xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo”.

Về phía doanh nghiệp

Hai tác giả nổi tiếng người Mỹ: Tom Kelley và David Kelley đã phân tích: “Trong thế giới kinh doanh, sáng tạo thể hiện thông qua cách tân; những ngôi sao công nghệ như Google, Facebook và Twitter đã khai phóng sức sáng tạo của nhân viên nhằm thay đổi cuộc sống của hàng tỷ con người.

Ngày nay, trong mỗi phòng ban, từ dịch vụ khách hàng đến tài chính – mọi người đều có cơ hội trải nghiệm những giải pháp mới, công ty rất cần những kiến giải của nhân viên từ khắp các bộ phận; không một lãnh đạo cấp cao nào hay một phòng ban chuyên biệt nào nắm thế độc quyền trong việc đưa ra những sáng kiến mới”.

Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, để doanh nghiệp thành công phát triển bền vững, đổi mới sáng tạo luôn luôn là nguyên tắc số 1 và hàng đầu trong hoạt động của từng doanh nghiệp.

Nguồn lực cho đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đến từ đâu?

–  Đến từ nhân viên khắp các bộ phận sản xuất kinh doanh của công ty, vấn đề là làm cách nào để khai thác được trí tuệ sáng tạo của nhân viên.

–  Đến từ các đối tác lớn của công ty trong việc hợp tác sản xuất kinh doanh, đóng góp từ thay đổi chất lượng, mẫu mã, bao bì  ….

–  Đến từ người tiêu dùng thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề; thông qua những chương trình bình chọn của người tiêu dùng…

–  Đến từ việc bổ sung những người tài vào ban lãnh đạo [các vị trí chủ chốt trong công ty] công ty từng đợt.

– Đến từ việc nghiên cứu của công ty [hoạt động R&D]; trong đó có các nhà khoa học, từ ứng dụng công nghệ mới vào việc sản xuất và kinh doanh của công ty, hợp tác nghiên cứu với viện, trường đại học …

Đổi mới sáng tạo thành công trước hết phải dựa vào khoa học công nghệ, đây là nền tảng cơ bản của hoạt động đổi mới sáng tạo. Tùy từng giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi đất nước mà xác định phát triển theo chiều ngang hay chiều sâu, nhưng căn bản cốt lõi vẫn phải dựa trên khoa học công nghệ.

Để tận dụng công nghệ, doanh nghiệp cần phải có nguồn vốn, điểm thiết yếu cần có để tạo nên môi trường kích thích cho đổi mới và sáng tạo là nguồn lực tài chính thích hợp. Điểm qua vài doanh nghiệp thành công từ đổi mới công nghệ trong nước đều cho thấy tầm quan trọng của nguồn tài chính trong việc tạo nên sự phát triển đột phá để thành công từ việc áp dụng nền tảng công nghệ.

Bên cạnh thành tựu của các doanh nghiệp lớn, trong thời gian vừa qua nhiều công ty khởi nghiệp của Việt Nam đang vươn ra khu vực và thế giới, nhận được các khoản đầu tư lớn từ cá quỹ đầu tư quốc tế. Điển hình như ABIVIN đã trở thành nhà vô địch của cuộc thi World Cup Start up năm 2019 với giải thưởng trị giá 1 triệu USD.

Cơ hội tài chính cũng tiếp tục mở ra đối với các công ty khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khi các công ty dịch vụ công nghệ tài chính lần lượt ra đời, điển hình là công nghệ tài chính phục vụ cho đổi mới sáng tạo Fintech [Financial Technology].

Hiểu một cách đơn giản, Fintech là thuật ngữ để chỉ ngành cung cấp các dịch vụ tài chính trên nền tảng công nghệ. Fintech đã bùng nổ từ năm 2010, thu hút tổng đầu tư 200 tỷ USD trên toàn cầu. Xu hướng này đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, ở khu vực và tại Việt Nam. Việt Nam được đánh giá là một thị trường Fintech tiềm năng và lĩnh vực này được dự báo là sẽ bùng nổ trong thập kỷ tới.

Như vậy, để tạo lập và phát triển nguồn vốn phục vụ cho đổi mới sáng tạo, bên cạnh nguồn vốn nội tại, doanh nghiệp cần tận dụng tối đa cơ hội tiếp cận các quỹ đầu tư mạo hiểm và các công ty công nghệ tài chính để đảm bảo nguồn lực về tài chính ổn định, sẵn sàng cho hoạt động đổi mới sáng tạo.

Bước vào công cuộc đổi mới sáng tạo, vai trò của nguồn nhân lực cũng vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng đạt đến sự phát triển đỉnh cao.

Khi chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững cũng chính là con người – nguồn nhân lực chất lượng được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm và trên hết là năng lực sáng tạo từ họ… Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị – xã hội ổn định và đặc biệt là quốc gia đó có nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển không chỉ của nền kinh tế nước ta mà còn với cả nền kinh tế thế giới nói chung, đặc biệt là giai đoạn đổi mới sáng tạo.

Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì cần phải tiêu thụ được sản phẩm của mình, điều này được thể hiện qua các khách hàng của doanh nghiệp. Sự phát triển của công nghệ kéo theo sự chuyển biến của thị trường và sự thay đổi thị hiếu, cách thức tiêu dùng của khách hàng.

Do đó, muốn thực hiện đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp không thể không quan tâm đến thị trường, đặc biệt là đối tượng khách hàng, hay nói cách khác nghiên cứu thị hiếu khách hàng và đặc điểm của thị trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp trong tiến trình đổi mới sáng tạo.

Đổi mới sáng tạo là mệnh lệnh sống còn cho công cuộc tái cấu trúc nền kinh tế, tái cơ cấu các doanh nghiệp hiện nay. Đây cũng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước để Việt Nam hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới, thoát khỏi “danh hiệu” nước có thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên để đạt được thành tựu trong đổi mới sáng tạo đồng thời tạo được thành công trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên cơ sở có sự đồng thuận từ nhiều phía…

Phải chăng, đã đến lúc chúng ta cần xây dựng một nền văn hóa đổi mới sáng tạo?

Xin dẫn lời của Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng để thay cho lời kết: “Văn hóa đổi mới sáng tạo, văn hóa khởi nghiệp là yếu tố cấu thành quan trọng của một hệ sinh thái khởi nghiệp lành mạnh. Do vậy, cần hình thành và nuôi dưỡng văn hóa đổi mới sáng tạo từ trong nhà trường, gia đình và xã hội; nuôi dưỡng văn hóa dám đương đầu với rủi ro, thách thức và bao dung với sự thất bại như một bước đệm tất yếu dẫn đến thành công”./.

CEO Đặng Đức Thành
Chủ nhiệm Câu lạc bộ Các nhà kinh tế
Ủy viên BCH Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [VCCI] 
Nguồn: //baochinhphu.vn/Thi-truong/Bai-5-Nguon-luc-nao-cho-doi-moi-sang-tao/375249.vgp

Video liên quan

Chủ Đề