Tại sao đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của đảng trong giai đoạn 1939 - 1941

Vì sao đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng giai đoạn 1939 1945

Admin 10/05/2021 932

Câu9.Phân tích nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939-1945. Tại sao Đảng lại đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu?

Hoàn cảnh lịch sử:


Trong nước :

Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất tàn bạo, thủ tiêu quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939…

Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Bạn đang xem: Vì sao đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng giai đoạn 1939 1945

Thế giới: + Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 6-1940, Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.

- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được từng bước hoàn chỉnh qua ba hội nghị:

+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 [11-1939] mở đầu sự chuyển hướng.

+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 7 [11-1940] tiếp tục bổ sung nội dung chuyển hướng

+ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [5-1941]hoàn chỉnh nội dung chuyển hướng.

- Nội dung cơ bản chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

+ Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp-Nhật. Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”…

+ Thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh [còn gọi là Việt Minh] để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc thay cho hình thức mặt trận trước đó; đổi tên các hội phản đế thành hội cứu quốc

+ Xác định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại; ra sức phát triển lực lượng cách mạng [bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang], xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng.

+ Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.

+ Chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ cho cách mạng và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

Xem thêm: Vì Sao Có Thể Nói Nguyễn Trãi Là Một Nhân Vật Lịch Sử Vĩ Đại

=> Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhận thức nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên cao hơn hết thảy, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, nâng cao hơn nữa năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng là tinh thần chung của quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

- Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được hoàn chỉnh góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương, sự chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.

- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng để tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giúp công tác chuẩn bị giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng của quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.

+ Lực lượng cách mạng đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng.

+ Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng cách mạng, từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở đưa tới sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân sau này.

+ Đảng Cộng sản Đông Dương cũng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng.

Câu9.Phân tích nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939-1945. Tại sao Đảng lại đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu?

Hoàn cảnh lịch sử:


Trong nước :

Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất tàn bạo, thủ tiêu quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939…

Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Bạn đang xem: Vì sao đảng ta chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng giai đoạn 1939 1945

Thế giới: + Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 6-1940, Chính phủ Pháp đầu hàng Đức.

- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

- Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được từng bước hoàn chỉnh qua ba hội nghị:

+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 [11-1939] mở đầu sự chuyển hướng.

+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 7 [11-1940] tiếp tục bổ sung nội dung chuyển hướng

+ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [5-1941]hoàn chỉnh nội dung chuyển hướng.

- Nội dung cơ bản chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

+ Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp-Nhật. Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”…

+ Thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh [còn gọi là Việt Minh] để đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc thay cho hình thức mặt trận trước đó; đổi tên các hội phản đế thành hội cứu quốc

+ Xác định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại; ra sức phát triển lực lượng cách mạng [bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang], xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng.

+ Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.

+ Chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ cho cách mạng và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

Xem thêm: Vì Sao Có Thể Nói Nguyễn Trãi Là Một Nhân Vật Lịch Sử Vĩ Đại

=> Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhận thức nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên cao hơn hết thảy, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, nâng cao hơn nữa năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng là tinh thần chung của quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.

Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

- Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được hoàn chỉnh góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương, sự chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.

- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giúp cho nhân dân ta có đường hướng đúng để tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giúp công tác chuẩn bị giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trong cả nước, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng của quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.

+ Lực lượng cách mạng đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng.

+ Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng cách mạng, từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm cơ sở đưa tới sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân sau này.

+ Đảng Cộng sản Đông Dương cũng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng.

Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

Quảng cáo

1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

a] Tình hình thế giới và trong nước

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Tháng 6- 1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-6-1941, quân phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi Phátxít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phátxít do Đức cầm đầu.

Tình hình trong nước:

Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.

Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nshìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phátxít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

b]Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ sáu [tháng 11-1939], Hội nghị lần thứ bảy [tháng 11-1940] và Hội nghị lần thứ tám [tháng 5-1941]. Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

Một là, đưa ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...

Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.

Để tập hợp lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương; đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc [Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…] để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang lả nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.

Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.

Ban Chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở nước ta: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù... với lực lượng sằn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể dành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao lực lượng tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c] Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng lạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đứng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương [tháng 5-1941], Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp — Nhật. Người nhấn mạnh: " Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng".

Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng, đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng. Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bổ ra đời. Mặt trận Việt Minh đã tuyên bố ra 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Từ đầu nguồn cách mạng Pác Bó, Việt Minh đã lan tỏa khắp nông thôn, thành thị có hệ thống từ

Trung ương đến cơ sở. Một tổ chức chính trị yêu nước ra đời và đã tham gia làm thảnh viên của Mặt trận Việt Minh như Đảng Dân chủ Việt Nam [tháng 6-1944]. Lực lượng chính trị quần chúng ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp - Nhật theo khẩu hiệu của Mặt trận Việt Minh.

Trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng cách mạng, từng bước tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ các đội du kích bí mật, các đội Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã thành lập Việt Nam giải phóng quân. Đảng chỉ đạo việc lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn — Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng. Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi ở các khu căn cứ và khắp các địa phương trong cả nước đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quân chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
  • Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng?
  • Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương [tháng 10-1930]?
  • Đường lối cách mạng của Đảng được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ I [tháng 3-1935]?
  • Đường lối đấu tranh giành chính quyển [1939-1945] và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945?
Quảng cáo
Báo lỗi - Góp ý

Cách mạng tháng Tám 1945 thắng lợi đưa đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [2/9/1945] - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chính thức mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó được tạo nên từ nhiều nhân tố, nhưng nhân tố bao trùm có vai trò quyết định là sự chỉ đạo chiến lược của Đảng từ năm 1939, trực tiếp là trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền [8/1945].

Nhân dịp kỷ niệm 75 năm sự kiện đặc biệt trọng đại này, Thông tấn xã Việt Nam [TTXVN] trân trọng giới thiệu bài viết: “Chỉ đạo chiến lược của Đảng trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945” của Tiến sĩ Trần Hữu Huy, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.

Ngày 19/8/1945, cả Thủ đô ngập tràn cờ đỏ sao vàng. Hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh tư liệu: TTXVN

Chuyển hướng đấu tranh đúng đắn, sáng tạo

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương ngay lập tức thi hành chính sách thời chiến rất hà khắc: Một mặt, trắng trợn phát xít hóa bộ máy cai trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, tập trung chĩa mũi nhọn tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương; mặt khác, ra sức vơ vét của cải và tăng cường bắt lính phục vụ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa.

Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng 8 vạn binh lính người Việt Nam bị đưa sang chiến trường châu Âu. Chính sách phản động đó đã đẩy các tầng lớp nhân dân lao động vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt.

Trước sự khủng bố quyết liệt của kẻ thù, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ động rút vào hoạt động bí mật. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh cách mạng trong tình hình mới, ngày 6/11/1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 họp tại Bà Điểm [Hóc Môn, Gia Định] do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị thống nhất một nhận định quan trọng: Trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc này, vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng.

Trên cơ sở nhận định đó, Hội nghị đã quyết định những vấn đề cơ bản. Về mục tiêu đấu tranh: Đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị nhấn mạnh: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”.

Về phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.

Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương [thay cho Mặt trận dân chủ không còn phù hợp] nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các cá nhân yêu nước tập trung đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít.

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo chiến lược cách mạng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt cơ sở nền tảng cho toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945, mở đường đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Bước sang năm 1940, đầu năm 1941, bối cảnh quốc tế và trong nước có những chuyển biến mạnh mẽ. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày càng lan rộng và khốc liệt. Các nước thực dân, đế quốc phát xít đẩy mạnh vơ vét sức người, sức của ở các thuộc địa. Ở trong nước, tháng 9/1940, quân đội phát xít Nhật tiến công Lạng Sơn. Chính quyền thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng, rồi mở cửa cho chúng vào Đông Dương.

Thực tế, dù có mâu thuẫn, nhưng Pháp và Nhật câu kết chặt chẽ với nhau để cùng áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương. Các tầng lớp nhân dân bị đẩy đến tình trạng vô cùng cực khổ, mâu thuẫn dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc phát xít càng thêm sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Bắc Sơn [27/9/1940], khởi nghĩa Nam Kỳ [23/11/1940], cuộc binh biến Đô Lương [13/1/1941]. Dù bị kẻ thù đàn áp, chịu nhiều tổn thất, song các cuộc đấu tranh đó đã nêu cao tinh thần yêu nước, để lại cho cách mạng những bài học, kinh nghiệm quý báu.

Trước tình hình ngày càng khẩn trương và cấp bách đó, đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [từ 10 - 19/5/1941], họp tại Pác Bó [Cao Bằng]. Hội nghị nhận định: Ở Việt Nam và Đông Dương lúc này, mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách nhất là mẫu thuẫn dân tộc với đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Từ đó, Hội nghị quyết định những vấn đề quan trọng.

Theo đó, mục tiêu đấu tranh được xác định là giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách cai trị của Pháp - Nhật, nhấn mạnh: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Hội nghị cũng đi đến thống nhất về chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng trong phạm vi từng nước Đông Dương. Mỗi nước Đông Dương cần thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam sẽ thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt Minh], gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là hội cứu quốc nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc lập.

Bên cạnh đó, Hội nghị quyết định xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại.

Như vậy, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 [5/1941] đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược cách mạng đã đề ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 [11/1939], thể hiện rõ sự phát triển sáng tạo về mặt chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945.

Phát động khởi nghĩa kịp thời, chính xác

Tại Sài Gòn, ngày 25/8/1945, hơn một triệu quần chúng nội thành và ven đô cùng một số tỉnh lân cận tiến hành mít tinh, tuần hành vũ trang khổng lồ, lật đổ chính quyền phát xít Nhật. Ảnh tư liệu: TTXVN phát

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến giai đoạn kết thúc. Chủ nghĩa phát xít liên tiếp thua trận, đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân đội các nước Đồng minh chuẩn bị đổ bộ vào Đông Dương. Trong tình thế khó khăn đó, phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp [9/3/1945] để độc chiếm Đông Dương. Sau khi đảo chính, quân Nhật cùng thế lực tay sai ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân ta ngày một thậm tệ hơn; đồng thời đưa quân tiến công vào các căn cứ địa cách mạng, tăng cường những hành động khủng bố, bắn giết, tàn sát... khắp nơi.

Về phía ta, ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại Đình Bảng [Bắc Ninh], ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” [12/3/1945], xác định rõ kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật. Vì vậy, cần phải thay khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi Nhật” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Hội nghị quyết định phát động một cao trào “Kháng Nhật cứu nước” mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cách mạng cả nước từ đây chuyển sang bước phát triển mới, phong trào đấu tranh vũ trang và các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tiếp diễn ra ở nhiều địa phương, đẩy quân Nhật và chính quyền tay sai rơi vào khủng hoảng trầm trọng.

Đầu tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến những ngày cuối cùng. Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, chấm dứt chiến sự ở châu Âu, các nước trong phe Đồng minh [đứng đầu là Mỹ và Liên Xô] dồn sức tiêu diệt phát xít Nhật ở châu Á, buộc chính phủ Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện [13/8/1945]. Tin tức đầu hàng nhanh chóng lan đi khắp mặt trận. Quân đội Nhật chiếm đóng ở Đông Dương bị tê liệt, mất tinh thần chiến đấu, chính phủ bù nhìn hoang mang cực độ. Không khí cách mạng sục sôi trong cả nước.

Theo sự thỏa thuận của các nước Đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch [Trung Hoa dân quốc] sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam, quân đội Anh - Pháp sẽ vào miền Nam Việt Nam [lấy vĩ tuyến 16 phân chia] làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất đều muốn thực hiện ý định tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền tay sai phục vụ mưu đồ cai trị, nô dịch lâu dài.

Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị toàn quốc [từ 13 - 15/8/1945] họp tại Tân Trào [Tuyên Quang], nhận định thời cơ đã đến, quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh vào. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc để kịp thời chỉ đạo thống nhất phong trào khởi nghĩa các địa phương. Ủy ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!... Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”.

Tiếp ngay sau đó, Đại hội quốc dân cũng họp ở Tân Trào [ngày 16/8/1945], bao gồm đại biểu của ba xứ [Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ] đại diện cho các giới, các đoàn thể, các dân tộc, tiêu biểu cho ý chí và nguyên vọng toàn dân. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam [Chính phủ lâm thời] do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua một số chính sách quan trọng của Mặt trận Việt Minh.

Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa, nhân dân cả nước với khí thế sục sôi đồng loạt nổi dậy giành chính quyền. Trong vòng nửa tháng [từ 14 - 28/8/1945], cuộc Tổng khởi nghĩa thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại quảng trưởng Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Cách mạng tháng Tám 1945 là một trong những cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công triệt để nhất trong lịch sử, là minh chứng khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trên cơ sở nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó kiên quyết tập trung mọi lực lượng để giành thắng lợi. Đó chính là bài học kinh nghiệm rất quý báu, được Đảng ta tiếp tục chắt lọc vận dụng sáng tạo vào cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn sau, nhất là qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ [1945 - 1975].

Phát huy tinh thần, giá trị bài học chỉ đạo chiến lược trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nguyên tắc cơ bản: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện chính sách mở rộng hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, trong đó phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn làm cơ sở để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đáp ứng nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài.

TTXVN/Báo Tin tức
Cách mạng tháng Tám 1945: Chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là kết quả hội tụ của nhiều nhân tố, trong đó chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945.

Chia sẻ:
Từ khóa:

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề