Thuốc tiêm dưới da hấp thu chậm hơn tiêm bắp vì

Thuốc có khả năng hấp thu qua đường hô hấp thường là các chất ở thể lỏng, chất dễ bay hơi hoặc thể khí. Khi hít thuốc qua mũi vào phổi, thuốc sẽ chuyển qua mao mạch phế nang vào máu. Một số thuốc được dùng qua đường này như thuốc trị hen phế quản [dạng khí dung, bột hít…].

Dùng thuốc qua da

Da được ví như “chiếc áo bảo hộ”, và là một trong những đường đưa thuốc vào cơ thể.Da có lớp nhũ tương của bã nhờn và mồ hôi chống chọi với  tác nhân lý hóa bên ngoài. Lớp sừng tạo nên hàng rào biểu bì, hàng rào này bền hơn những biểu mô phủ khác. Thuốc khuếch tán thụ động qua biểu bì, qua tuyến bã, nang lông.

Dùng thuốc qua đường tiêm có ưu điểm là hấp thu nhanh, hoàn toàn...

Thuốc dùng ngoài da bao gồm thuốc mỡ, cao dán, nước hoa, thuốc xoa bóp… Khi bôi thuốc trên da và niêm mạc, thuốc sẽ có tác dụng tại chỗ [tác dụng nông] như khi dùng thuốc sát khuẩn, thuốc chống nấm, thuốc làm săn da… Một số thuốc như tinh dầu, salisylat, hormone, kháng sinh… có khả năng thấm qua hàng rào biểu bì gây tác dụng sâu dưới da. Lớp sừng là nơi dự trữ thuốc, giữ được thuốc cả sau khi tắm rửa và thuốc có thể  ở lâu trong da tới hàng tuần. Hoặc cũng có loại bôi ngoài da nhưng lại cho tác dụng toàn thân [như bôi thuốc mỡ trinitrat glycerin vùng tim để chống dau thắt ngực]… Xoa bóp trên da khi bôi thuốc sẽ giúp cho thuốc hấp thu vào mao mạch như cồn xoa bóp, thuốc có tinh dầu.

Nếu da tổn thương [mất lớp sừng] làm cho thuốc, chất độc dễ xâm nhập, tạo tác dụng toàn thân.Da trẻ sơ sinh có lớp sừng mỏng manh, tính thấm mạnh, nếu dùng không thận trọng dễ gây ngộ độc toàn thân cho trẻ.

Do thuốc bôi ngoài da không những có tác dụng tại chỗ mà còn có cả tác dụng toàn thân, thuốc bôi ngấm vào da, ngấm vào mạch máu, tác động vào thần kinh qua đó tác động lên toàn bộ cơ thể. Vì vậy, khi dùng thuốc qua da cần lưu ý:

Sử dụng thuốc bôi goài da phải phù hợp với tính chất bệnh lý, giai đoạn bệnh, mức độ bệnh, vùng da…Một số thuốc không bôi được ở vùng mặt, vùng sinh dục.

Không nên bôi một thuốc thời gian quá dài, cũng không nên liên tục thay thuốc làm khó đánh giá kết quả điều trị cũng như nhận định chẩn đoán đúng sai… thường một đợt bôi thuốc khoảng 10-15 ngày.

Theo dõi kỹ bệnh nhân trong thời gian dùng thuốc để có thể điều chỉnh kịp thời và theo dõi phản ứng da của từng bệnh nhân vì thuốc bôi cũng có thể gây dị ứng…

Qua đường tiêu hoá

Qua niêm mạc miệng

Tại miệng, nhất là vùng dưới lưỡi có hệ thống mao mạch rất phong phú nên thuận tiện cho việc hấp thu một số thuốc. Thuốc dùng qua niêm mạc miệng như dùng đặt dưới lưỡi [cho tác dụng toàn thân] sẽ được hấp thu nhanh, thẳng vào vòng tuần hoàn chung trước khi qua gan [nên tránh được sự phá hủy của men chuyển hóa thuốc ở gan], không bị chuyển hoá trước khi phát huy tác dụng và không bị phá huỷ bởi dịch tiêu hoá. PH của nước bọt là 6,5 là một lợi thế vì ít ảnh hưởng đến độ bền của thuốc nhạy cảm với môi trường kiềm và acid. Đây là một đường đưa thuốc thuận tiện, dễ thực hiện lại an toàn vì nếu có hiện tượng quá liều thì lập tức có thể loại trừ thuốc ngay bằng cách nhổ bỏ. Đường đưa thuốc này chỉ dùng với những thuốc không gây loét niêm mạc miệng, dễ dàng hấp thu tại đây và dùng liều nhỏ, thường áp dụng cho nhóm thuốc tim mạch và hormon.

Để đặt dưới lưỡi, viên thuốc phải mỏng [tránh gây cộm], dược chất giải phóng dược chất nhanh [rã trong vòng 1-2 phút]. Tuy nhiên, nhược điểm của đường đưa thuốc này là khi đặt thuốc thường gây phản xạ tiết nước bọt kèm theo phản xạ nuốt, làm cho một lượng thuốc bị mất đi do trôi xuống dạ dày và ruột nên khi dùng thuốc ngậm dưới lưỡi phải hạn chế phản xạ nuốt.

Qua ống tiêu hoá

Qua ống tiêu hoá thuốc thường được sử dụng theo đường uống. Đây là đường đưa thuốc phổ biến nhất trong điều trị. Hầu hết các thuốc đều có thể đưa qua đường này trừ những thuốc có hoạt chất không hấp thu ở ruột hoặc bị phân hủy bởi men tiêu hóa hoặc bị phá hủy quá nhiều khi qua gan ở vòng tuần hoàn đầu.

Khi dùng thuốc qua đường tiêu hoá, thuốc sẽ qua miệng, thực quản tới dạ dày và ruột. Tuỳ từng nơi trong đường tiêu hoá mà thuốc sẽ được hấp thu với mức độ khác nhau:

Ở dạ dày: Phần lớn các thuốc ít hấp thu qua niêm mạc dạ dày vì ở đây hệ thống niêm mạc ít phát triển và môi trường pH acid, thời gian thuốc ở đây không lâu. Khi đói thuốc hấp thu nhanh nhưng lại dễ kích ứng.

Ở ruột: Tại ruột non, đây là nơi hấp thu thuốc tốt nhất vì niêm mạc ruột non có hệ thống mao mạch phát triển phong phú nên giúp cho sự hấp thu thuốc dễ dàng. Ở ruột già, do diện tích tiếp xúc với thuốc ít hơn nên khả năng hấp thu thuốc rất hạn chế.

Như vậy, dùng thuốc qua đường tiêu hoá sẽ bị ảnh hưởng bởi một số các yếu tố như: Độ pH [thay đổi trong đường tiêu hoá], bị tác động bởi dịch tiêu hoá [một số thuốc sẽ bị ảnh hưởng bởi acid của dạ dày], hệ men và hệ vi khuẩn trong đường tiêu hoá, và bị chuyển hoá qua gan lần đầu…

Thuốc ra khỏi dạ dày để đến vùng hấp thu nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Thời điểm dùng thuốc, chế độ ăn uống, trạng thái của người bệnh, vị trí của viên thuốc trong dạ dày… Thời gian viên thuốc lưu lại ở dạ dày biến động làm cho quá trình hấp thu dược chất về sau cũng thay đổi rất nhiều. Đặc biệt, nếu dùng viên bao tan ở ruột, thuốc lưu lại quá lâu ở dạ dày thì vỏ bao có thể rã ngay trong dạ dày, làm hỏng hoạt chất, còn viên ra khỏi dạ dày nhanh quá thì chưa chắc đã kịp tan rã để giải phóng dược chất ở vùng hấp thu tối ưu ở ruột.

Do vậy, khi uống thuốc cần tránh mức tối đa các tác động bất lợi trên. Cụ thể:

Cần uống thuốc đúng thời điểm:  Tuỳ theo từng loại thuốc mà cần uống thuốc trước bữa ăn, trong bữa ăn hay sau bưa ăn hoặc uống thuốc vào buổi tối, sáng… phù hợp, để hạn chế thấp nhất các yếu tố ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc và phát huy hiệu quả tối ưu trong điều trị.

Dùng nước thích hợp để uống thuốc: Nước tinh khiết hoặc nước đun sôi để nguội là đồ uống thích hợp cho mọi loại thuốc vì không xảy ra tương kỵ khi hoà tan thuốc. Nước làm thuốc dễ dàng trôi từ thực quản xuống dạ dày, tránh sự lắng đọng viên thuốc hoặc hoạt chất lại thành thực quản nhờ đó giảm gây kích ứng thuốc. Nước còn làm tăng độ tan của thuốc, giúp cho sự hấp thu thuốc tốt hơn. Thông thường đối với dạng viên [viên nén, viên nang] khi uống cần uống với nhiều nước [một cốc nước to khoảng 150-200ml]. Tuy nhiên lại có những loại thuốc chỉ cần uống với một ít nước [30-50ml] mới đạt hiệu quả. Ví dụ như thuốc tẩy giun sán…

Qua trực tràng

Trực tràng cũng là nơi hấp thu thuốc tương đối tốt. Thuốc đưa vào trực tràng thường được sản xuất dưới dạng viên đạn.Các tá dược gồm tá dược béo và tá dược thân nước.Tá dược béo giải phóng dược chất theo cơ chế tan chảy ở thân  nhiệt, còn tá dược thân nước giải phóng theo cơ chế hòa tan trong dịch cơ thể. Thuốc đạn giải phóng dược chất nhanh, sau khi hòa tan được hấp thu vào tĩnh mạch trực tràng đi về tĩnh mạch chủ, phần lớn [50-70%] thuốc không qua tĩnh mạch cửa gan sau khi hấp thu nên tránh được sự phân hủy tại gan, ngoài ra tránh được tác động của dịch vị và hệ men của đường tiêu hóa so với dùng dưới dạng uống.

Dùng thuốc qua đường này thích hợp cho những trường hợp không dùng được đường uống [hôn mê, trẻ nhỏ, tắc ruột, nôn nhiều],  thuận tiện với những thuốc có mùi vị khó chịu, dễ gây buồn nôn, những chất kích ứng đường tiêu hóa mạnh. Nhưng nhược điểm của đường dùng này là hấp thu không hoàn toàn và có thể gây kích ứng niêm mạc hậu môn.

Dùng thuốc theo đường tiêm

Dùng thuốc theo đường tiêm được sử dụng trong các trường hợp cấp cứu [cần tác dụng nhanh], nhiễm trùng nặng, thuốc không đáp ứng được đường uống, dược chất cần sử dụng không có dạng thuốc uống, thuốc chỉ phát huy tác dụng ở dạng tiêm, hoặc trong các trường hợp không dùng được thuốc uống [thuốc làm tổn thương niêm mạc tiêu hoá, không hấp thu được qua đường tiêu hoá, bị phá hủy bởi acid đầy, người bệnh bị nôn ói nhiều, người bệnh chuẩn bị mổ, người bệnh tâm thần, không hợp tác... ]. Tiêm thuốc bao gồm: tiêm dưới da, tiêm bắp và tiêm tĩnh mạch. Ngoài ra, còn có tiêm trong da, tiêm tuỷ sống…

Ưu điểm của tiêm thuốc là hấp thu nhanh, hoàn toàn; tránh được sự phân huỷ của dịch tiêu hoá; nhưng nhược điểm là dễ gây áp xe, viêm tĩnh mạch, nhiễm trùng huyết [do vô khuẩn không tốt] hoặc gây sốc phản vệ, sử dụng phải có cán bộ và trang thiết bị y tế.


Trong việc dùng thuốc, đường đưa thuốc ảnh hưởng rất lớn tới sinh khả dụng, tốc độ dược lý của thuốc. Trong điều trị, việc dùng thuốc thường được đưa theo đường tiêu hóa [đường uống] và các đường ngoài tiêu hóa. Trong các đường ngoài tiêu hóa, việc đưa thuốc theo đường tiêm là rất quan trọng và tối ưu trong việc cần thuốc đáp ứng nhanh, tác dụng toàn thân và khẩn cấp. Tuy nhiên, đưa thuốc theo đường tiêm là việc đưa thuốc trực tiếp vào mạch máu, hệ tuần hoàn của cơ thể, nên người bào chế thuốc, bác sỹ, y tá cần nắm rõ các đặc điểm của việc đưa thuốc theo đường tiêm để sử dụng cho đúng.

1. Các đặc điểm của thuốc tiêm

Đưa thuốc theo đường tiêm là đường thuốc có sinh khả dụng bảo đảm nhất và có thời gian xuất hiện tác dụng ngắn. Đường tiêm được dùng nhiều trong bệnh viện, nhất là những trường hợp bệnh nặng hoặc cấp cứu. Về mặt bào chế, thuốc tiêm có thể ở dạng bào chế dung dịch, hỗn dịch hay nhũ tương. Vì thuốc tiêm sẽ được đưa thẳng vào cơ thể, vượt qua các hàng rào bảo vệ như da và niêm mạc để đi vào máu nên thuốc tiêm cần phải vô khuẩn và đạt độ tinh khiết cao so với các dạng thuốc khác, đặc biệt là thuốc tiêm – truyền tĩnh mạch.

+ Yêu cầu chung của thuốc tiêm là phải VÔ KHUẨN; một số thuốc tiêm đặc biệt hoặc với một số thuốc tiêm dùng một lần từ 15ml trở lên phải không được có chất gây sốt.

+ Thuốc tiêm dung dịch phải đạt độ trong quy định, thuốc tiêm hỗn dịch hay nhũ tương khi lắc kỹ phải tạo được hệ phân tán đồng nhất.

+ Thuốc tiêm phải có pH thích hợp để đảm bảo độ bền của dược chất và khi tiêm ít gây đau.

+ Thuốc tiêm truyền với khối lượng lớn, thường phải đẳng trương với máu.

+ Dung môi để hòa tan thuốc tiêm phải đạt yêu cầu “dùng pha tiêm” theo quy định.

2. Các dung môi thường dùng trong thuốc tiêm

Dung môi dùng trong thuốc tiêm cần phải đảm bảo yêu cầu đặc biệt quan trọng, vì dung môi hòa tan dược chất sẽ được đưa thẳng trực tiếp vào máu. Các loại dung môi thường dùng trong thuốc tiêm gồm:

Nước cất: Phải đạt tiêu chuẩn “Nước cất pha tiêm” được quy định trong dược điển. Đây là dung môi phổ biến nhất trong thuốc tiêm.

+ Dầu: Dùng dầu thảo mộc để cơ thể dễ hấp thu, không dùng dầu khoáng. Các loại dầu hay được sử dụng là dầu lạc, dầu vừng, dầu hướng dương, dầu hạt bông…

+ Ethanol: Dùng phối hợp với các dung môi khác [như nước cất, glycerin…] để dễ hòa tan dược chất.

+ Propylen glycol và PEG 300-600: Do có khả năng hòa tan rộng nên được dùng để hòa tan một số hoạt chất khó tan trong nước và để hạn sự chế thủy phân của một số dược chất dễ bị thủy phân [như thuốc tiêm barbituric, thuốc tiêm oxytetracylin…].

Ngoài dược chất và dung môi, thuốc tiêm còn chứa các chất phụ với mục đích để làm tăng độ tan, sát khuẩn,chống oxy hóa... Trong đó các chất phụ đáng lưu ý sử dụng:

+ Natri sulfit, natri metabisulfit: là những chất phụ chống oxy hóa nhưng dễ gây sốc khi tiêm.

+ Lidocan: Là chất phụ để giảm đau khi tiêm bắp, rất nguy hiểm nếu đưa vào tĩnh mạch.

+ Thuốc tiêm bắp có chất phụ sát khuẩn [phenol, clocresol, clobutol, thủy ngân phenyl borat,thiomersal, benzalkonium clorid…] không được đưa vào tĩnh mạch hoặc tủy sống.

3. Ưu điểm của thuốc tiêm

-    Tránh được sự phá hủy thuốc do các yếu tố ở đường tiêu hóa: dịch vị, men tiêu hóa.

-    Tránh được tác động của vòng tuần hoàn đầu [với những thuốc bị phân hủy mạnh mẽ bởi men gan]

-    Tránh được sự hao hụt khi phải vận chuyển trong ống tiêu hóa

-    Tránh độc tính lên niêm mạc tiêu hóa [một số thuốc chống ung thư ức chế sự phát triển của niêm mạc ống tiêu hóa]

Chính vì vậy, đây là đường đưa thuốc tối ưu với những thuốc không bị hấp thu khi uống [aminosid, heparin], những thuốc bị phân hủy bởi men tiêu hóa [insulin] hoặc những thuốc bị phá hủy gần 100% bởi vòng tuần hoàn đầu [estrogen]

4. Nhược điểm của thuốc tiêm

-    Đòi hỏi điều kiện vô trùng nghiêm ngặt và sự giúp đỡ của cán bộ chuyên môn nên bệnh nhân khó có thể sử dụng.

-    Chi phí cao vì tốn thêm chi phí tiền bơm, kim tiêm; hơn nữa thuốc tiêm thường đắt hơn thuốc uống.

-    Độ an toàn thấp hơn so với các đường đưa thuốc khác vì dễ gây sốc hơn [tiêm tĩnh mạch], gây đau, thậm chí áp-xe [tiêm bắp], dễ bị nhiễm trùng.

5. Những lưu ý khi sử dụng thuốc tiêm

-    Dạng bào chế: Thuốc tiêm dung dịch được hấp thu nhanh hơn thuốc tiêm hỗn dịch hay nhũ tương. Tốc độ hấp thu của thuốc tiêm hỗn dịch phụ thuộc vào thích thước tiểu phân, độ nhớt của môi trường phân tán, người ta đã chế các thuốc tiêm hỗn dịch có tác dụng kéo dài [như thuốc tiêm insulin], nhất là khi dùng dầu làm chất dẫn.

-    Nơi tiêm thuốc: Tiêm dưới da thuốc hấp thu chậm hơn tiêm bắp sâu, vì dưới da hệ mạch và lưu lượng máu ít hơn ở mô bắp. Thuốc tiên dầu hay thuốc tiêm nước có độ nhớt cao, thường được tiêm bắp sâu để đỡ đau cho người bệnh.

-    Nếu có nhầm lẫn thì gây tác hại mạnh hơn thuốc uống, do đó phải được dùng thận trọng. Nếu tiêm nhầm hoặc quá liều thì khó xử lý.
 

Video liên quan

Chủ Đề