Tiền giấy được phát hành dưới thời nào

Khi nhóm tác giả cuốn Lịch sử đồng tiền VN [NXB Hồng Đức, 2021] thực hiện cuốn sách, họ đã mau chóng thống nhất về việc tiền giấy Thông Bảo Hội Sao được tính là đồng tiền của thời Trần hay thời Hồ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, đồng tiền này được in vào thời Trần Thuận Tông. “Tiền giấy Thông Bảo Hội Sao theo ghi chép của sử biên niên, đó là sản phẩm thuộc về thành tựu của vương triều Trần, do Hồ Quý Ly khởi xướng khi ông nắm nhiều quyền bính của vương triều trong tay. Tuy nhiên ở vương triều Trần, loại tiền giấy này chưa được lưu hành. Triều Hồ mới lưu hành rộng rãi. Do đó, chúng tôi xếp tiền giấy Thông Bảo Hội Sao vào triều Hồ”, sách Lịch sử đồng tiền VN nêu.

GS Đỗ Văn Ninh [Viện Khảo cổ học VN] cũng cho rằng bàn về tiền tệ thời Hồ thì không nên theo thông lệ. Có nghĩa là không nên bắt đầu từ đồng tiền đầu tiên ban hành dưới triều Hồ mà bắt đầu từ loại tiền Thông Bảo Hội Sao vốn ban hành 4 năm trước khi triều Hồ chính thức ra đời. “Nhiều nhà nghiên cứu trước đó cũng nhìn nhận vấn đề như vậy. Các tác giả Trương Hữu Quýnh, Dương Minh, Trần Văn Khang… khi thảo luận về nhân vật Hồ Quý Ly đều coi việc phát hành tiền giấy Thông Bảo Hội Sao là một chính sách cải cách của Hồ Quý Ly”, GS Đỗ Văn Ninh viết.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa hạ, tháng 4 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái năm thứ 9 [1396] bắt đầu phát hành tiền giấy Thông Bảo Hội Sao”. GS Đỗ Văn Ninh cho biết từ năm 1396 cho tới ngày cuối của triều Trần, tiền đồng mang niên hiệu của vua Trần không có. Khi phát hành tiền, Hồ Quý Ly giữ chức Nhập nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, đeo lân phù bằng vàng, quyền hành lớn nhất trong triều, quyết định mọi việc lớn nhỏ.

Tiền Thông Bảo Hội Sao được sử sách mô tả với các hình vẽ tương đương giá trị khác nhau. Giấy 10 đồng vẽ rau rong. Giấy 3 tiền vẽ sóng. Giấy 1 tiền vẽ mây. Giấy 2 tiền vẽ rùa. Giấy 3 tiền vẽ lân. Giấy 5 tiền vẽ phụng. Giấy 1 quan vẽ rồng…

Không có ý "yêu dân"

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi tiền Thông Bảo Hội Sao in xong, triều đình cho người đem tiền đi đổi. Cứ một quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền. Ai làm giả tiền giấy phải tội chết, tịch thu điền sản vào nhà nước. Cấm hẳn việc chứa tiền đồng và thu lại tại Ngao trì ở kinh thành và ở trị sở các xứ.

Việc này được GS Đỗ Văn Ninh lý giải theo hướng Hồ Quý Ly đã bắt chước việc phát hành tiền giấy ở Trung Quốc, nhưng áp dụng ở ta vào lúc cơ sở kinh tế và thương mại chưa đòi hỏi. Chính vì nhà nước áp đặt vượt ra ngoài quy luật phát triển của kinh tế nên phải kèm theo sự cưỡng bức của pháp luật mới giữ cho đồng tiền sống nổi.

GS Đỗ Văn Ninh còn cho rằng tiền giấy Thông Bảo Hội Sao của Hồ Quý Ly đã gây thêm khó khăn cho đời sống, gây thêm mối lo cho nhân dân. Tuy nhiên, triều đình lại giải quyết được nguy cơ kho tàng trống rỗng. Điều đó cho phép họ Hồ, trong một thời gian ngắn ngủi có tiền để xây dựng một quân đội lớn cùng những công trình cũng rất to lớn mà nhiều thời khác không làm nổi. Thành nhà Hồ với quy mô lớn, như nhiều người đã biết, đã được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.

Tuy nhiên, triều Hồ cũng có tiền đồng. Năm 1400, bên cạnh tiền giấy Thông Bảo Hội Sao, nhà Hồ cũng đúc tiền Thánh Nguyên Thông Bảo. Khảo cổ học đã phát hiện những đồng tiền mang niên hiệu Thánh Nguyên này [Thánh Nguyên là niên hiệu của Hồ Quý Ly]. Với đường kính từ 19 - 21 mm, đây được coi là tiền đúc nhỏ nhất trong tiền cổ VN.

Về đồng tiền Thánh Nguyên Thông Bảo, sách Lịch sử đồng tiền VN cho rằng tiền đúc chủ yếu mang tính biểu trưng, số lượng rất ít và hiếm, có thể loại tiền này không đưa vào lưu thông. Trong khi đó, sách Tiền cổ VN [NXB Khoa học xã hội, 2019] lại cho rằng trong khi thúc đẩy cả nước tiêu tiền giấy, nhà Hồ vẫn cho đúc tiền đồng. Việc này một phần do theo lệ thường để chính thức hóa niên hiệu, phần khác vì phải đáp ứng chi tiêu buộc phải dùng tiền đúc, chẳng hạn như ngoại thương.

Theo GS Đỗ Văn Ninh, triều Hồ vừa mất, tiền giấy cũng mất theo lập tức. Vua Lê Thái Tổ ngay năm thứ hai của vương triều [1429] đã truyền cho các quan bàn phép dùng tiền. Trong lời chiếu của vua có đoạn có người dâng thư xin lấy tiền giấy thay cho tiền thực. Lịch triều hiến chương

loại chí của Phan Huy Chú chép nhà vua có chiếu: “Tiền giấy là vật vô dụng mà cho lưu hành ở trong dân hữu dụng, thực không phải là cái ý yêu dân dùng của”. Sau đó, tiền giấy không xuất hiện vào thời Lê nữa.

Tiền Việt Nam được phát hành lần đầu tiên vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Thời phong kiến, hầu như cứ mỗi đời vua lại cho phát hành loại tiền mới. Có khi, mỗi lần thay đổi niên hiệu, vua lại cho phát hành loại tiền mới khác. Tiền giấy được xem là xuất hiện ở Việt Nam khá sớm so với thế giới, vào năm 1396.

Chất liệu tiền giấy Việt Nam

Tiền giấy hay tiền cotton không phải được làm từ loại giấy thông thường vì khả năng hấp thụ nước dễ dàng, nhanh hỏng. Thay vào đó, người ta sẽ sử dụng khoảng 80% cotton [hay sợi bông], đôi khi được trộn cùng với sợi dệt để làm nên tiền giấy.

Chất liệu tiền giấy Việt Nam

Tiền Polymer mà chúng ta sử dụng chủ yếu ngày nay cũng là một dạng tiền giấy. Cấu tạo tờ tiền Polymer gồm 3 lớp: lớp phim, lớp giấy nền, phủ mờ và vecni. Hiện nay, tiền polymer được xem là loại tiền duy nhất có yếu tố chống giả đặc trưng sử dụng công nghệ cao để cài hình ẩn.

Tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Ít ai biết rằng, những tờ tiền giấy mà chúng ta lưu giữ trong ví hay dùng để chi tiêu hằng ngày lại có một lịch sử hết sức thú vị.

Xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tôc, tiền giấy Việt Nam đã trải qua những “thăng trầm” và biến động lớn.

Đồng tiền giấy đầu tiên – “Thông bảo hội sao”

Đây được xem là đồng tiền giấy Việt Nam đầu tiên trong lịch sử, ra đời thời nhà Hồ, do Hồ Quý Ly phát hành năm 1396. Tuy nhiên, thời điểm bấy giờ điều kiện kinh tế xã hội chưa phù hợp nên chính sách tiền giấy đã bị thất bại.

Giấy bạc Đông Dương

Nếu không kể đến tờ tiền giấy “Thông bảo hội sao” thất bại của Hồ Quý Ly phía trên thì đây được xem là tờ tiền đầu tiên của Việt Nam. Đến khi Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp, giấy bạc Đông Dương ra đời và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954 với mệnh giá 100 đồng bạc. Trên mặt tiền có in hình 3 thiếu nữ mặc trang phục truyền thống thể hiện tình hữu nghị 3 nước Lào, Campuchia và Việt Nam.

Giấy bạc Đông Dương được xem là tờ tiền đầu tiên của Việt Nam

Giấy bạc Cụ Hồ

Sau thành công của cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, tiền đồng cũng chính thức được in và lưu hành để khẳng định chủ quyền của dân tộc tự do. Bắt đầu từ thời điểm đó cho đến nay, chúng ta đã trải qua 7 lần thay đổi tiền cả về hình thức, chất liệu đến mệnh giá. Trước khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời, trên mỗi mặt trước của tờ tiền đều in dòng chữ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt sau của tờ tiền in hình giai cấp Nông – Công – Binh. Các con số ghi mệnh giá đều được dùng số Ả- Rập hoặc bằng chữ Hán, Lào, Campuchia. Người Việt Nam thời bấy giờ luôn gọi tiền giấy là “giấy bạc Cụ Hồ”.

Mệnh giá tiền thời kỳ này gồm giấy bạc 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng và 500 đồng.

Giấy bạc Cụ Hồ sau Cách mạng Tháng tám năm 1945

Đồng tiền giấy Ngân hàng Quốc gia

Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam miền bắc. Đây là đơn vị chính thức nhận các nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý dòng tiền, kho bạc, kiêm thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, đồng thời phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.

Từ đó tiền giấy do Ngân hàng quốc gia Việt Nam phát hành chính thức được đưa vào sử dụng và bắt đầu công cuộc đổi tiền. Dùng 1 đồng đến ngân hàng để đổi 10 đồng tài chính [đồng Cụ Hồ] nhằm thu hồi loại tiền cũ và lưu thông hoàn toàn tiền giấy mới. Đồng tiền giấy này có nhiều mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1000, 5000. Hình thức tiền ngân hàng khá giống với đồng tiền cũ trước đây và chỉ thay đổi về các bức hình in ở mặt sau cũng như màu sắc ở mỗi mệnh giá tiền.

Đặc biệt, với sự thay đổi ngoạn mục từ tháng 2 năm 1959 đến tháng 10 năm 1960, tỉ giá 1 đồng Ngân hàng Quốc gia đổi được 1.36 rúp [Liên Xô] và tương đương với 1.2 USD [Mỹ].

Vào năm 1958, tại miền bắc đồng tiền Ngân hàng Quốc gia được tiếp tục đổi và cũng trong giai đoạn này nạn in tiền giả bắt đầu xuất hiện trên thị trường.

Đồng tiền giấy Ngân hàng Quốc gia

Tiền đồng những năm 1975

Giai đoạn từ 1954 đến 1975, nước ta bị phân chia thành hai miền Nam – Bắc, mỗi miền lại sở hữu một loại tiền riêng nhưng đều gọi chung là “tiền đồng”. Cũng trong thời kỳ này, Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức chuyên in tiền giả nên trên tờ bạc 200 phải ghi thêm dòng chữ nhằm mục đích răn đe “Hình phạt khổ sai những kẻ nào giả mạo giấy bạc do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành ra”.

Tờ bạc 200 đồng năm 1975

Tiền giải phóng sau năm 1975

Sau khi giải phóng đất nước ngày 30/4/1975, tiền lưu hành ở miền Nam bị mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Đến năm 1978, sau khi đất nước ổn định và thống nhất về tài chính, tiền Việt Nam tiếp tục được thay đổi. Ở miền Bắc, 1 đồng giải phóng đổi được 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi được 8 hào thống nhất. Đồng thời nhà nước cũng phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, và 100 đồng.

Đồng tiền giải phóng sau năm 1975

Tiền đồng những năm 1985

Năm 1985, đứng trước diễn biến phức tạp của nền kinh tế và tình hình khan hiếm nghiêm trọng tiền mặt trong thanh toán, Nhà nước đã công bố đổi tiền theo tỉ lệ 10 đồng thống nhất đổi lấy 1 đồng tiền mới phục vụ cho cuộc cách mạng về giá cả và tiền lương. Ngân hàng quốc gia Việt Nam đã ban hành các loại tiền 10, 20, và 50 đồng.

Tiền đồng năm 1985

Tiền giấy thế kỷ XX

Năm 1990 các tờ tiền giấy cotton có mệnh giá 10.000 và 20.000 được phát hành, tờ 50.000 được in từ 15/10/1994 còn tờ 100.000 từ ngày 1/9/2000. Trong khi đó, tiền xu có một vài năm xuất hiện trên thị trường nhưng do không phù hợp với phong cách tiêu tiền của người Việt Nam nên nhanh chóng trở thành loại vật dụng lưu niệm.

Tiền giấy thế kỷ XX

Tiền polymer hiện tại

Hiện nay trên thế giới đã có 23 nước lưu hành đồng tiền in trên chất liệu polymer, trong đó có 3 nước sử dụng toàn bộ tiền polymer trong hệ thống tiền tệ; một số nước dùng tiền giấy polymer cho một vài mệnh giá; 6 nước hiện đang thử nghiệm tiền polymer dưới hình thức tờ tiền lưu niệm.

Năm 2003 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành tờ tiền polymer có giá trị lưu hành song song với các đồng tiền cũ nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ về mặt cơ cấu mệnh giá [thêm loại tiền có mệnh giá lớn], chủng loại.

Tiền polymer có nhiều ưu điểm vượt trội như: khó làm giả, độ bền cao, không thấm nước, thích hợp để sử dụng trong các thiết bị hiện đại như ATM, máy đếm tiền.

Kể từ khi tiền polymer được đưa vào lưu hành, bắt đầu từ ngày 1/9/2007, tiền giấy mệnh giá 50.000 và 100.000 đã hết giá trị lưu hành và từ ngày 1/1/2013, các loại tiền cotton mệnh giá 10.000 đồng, 20.000 đồng cũng đã ngừng sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay trên thị trường chỉ còn các tờ tiền giấy mệnh giá nhỏ dưới 5.000 đồng [1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng …] còn giá trị lưu hành tại Việt Nam.

Tiền Polymer hiện tại

Kết luận

Giống như quá trình hình thành và phát triển của những đồng tiền khác trên thế giới, tiền giấy Việt Nam cũng đã trải qua những thăng trầm cùng lịch sử của đất nước. Hi vọng với những kiến thức mà 3Gang cung cấp phía trên, chúng ta sẽ hiểu hơn về tiền giấy Việt Nam qua các thời kỳ, qua đó hiểu rõ hơn và biết trân trọng những đồng tiền được làm ra từ chính sức lao động của mình.

Chủ Đề