Tiểu luận tâm lý học đại cương tình cảm

16 475 KB 11 627

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 16 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH THÍCH HUỆ ĐỊNH NHỮNG CƠ CHẾ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HIỆN TƢỢNG TÂM LÝ NGƢỜI TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ III Môn : Tâm Lí Học Hà Nội – Năm 2020 GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH THÍCH HUỆ ĐỊNH NHỮNG CƠ CHẾ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HIỆN TƢỢNG TÂM LÝ NGƢỜI TIỂU LUẬN GIỮA HỌC KỲ III Môn : Tâm Lí Học MSSV: TX6189 GVHD: THS. NGÔ MINH DUY Hà Nội – Năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Con xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng con, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất kỳ đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các website, internet . Con xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của con. Hà Nội, ngày 12 tháng 03 năm 2020 Thích Huệ Định Nhận Xét Của Giaó Sư Hướng Dẫn  .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. .................................................................................................................. Ngày ……. tháng….. năm 2020 LỜI TRI ÂN Con xin chân thành cảm ơn giáo thọ ThS. Ngô Minh Duy đã tận tâm chỉ bảo hướng dẫn con qua các buổi học, thảo luận về môn Tâm Lí Học, nhờ đó bài luận văn này của con đã hoàn thành một cách suất sắc nhất. Một lần nữa, con xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy. Vì vốn kiến thức của con có hạn, do vậy không tránh khỏi những thiếu sót, con rất mong nhận được ý kiến đóng góp của chư Tôn Đức, quý Thầy Cô và các bạn học cùng lớp để bài luận được hoàn thiện hơn. Con xin chân thành cảm ơn! Hà Nội , ngày 12 tháng 09 năm 2020 Thích Huệ Định Page |-1- A. MỞ ĐẦU Thế giới tâm lý con người vô cùng kì diệu và phong phú, nó được mọi người quan tâm và nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại.Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lý, tâm lý học đã hình thành, phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con người. Đây là một ngành khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong cuộc sống hằng ngày người ta cho rằng, tâm lý là những điều gì đó thuộc về lòng người, về cách ứng xử của con người. Khi ai đó hiểu đúng lòng mình, cư xử làm ta hài lòng và chinh phục được người khác,... thì ta nói: “Người ấy thật tâm lý”. Ở cấp độ nhận thức thông thường, cụm từ “Tâm lý” được sử dụng và hiểu thiên về mặt tình cảm của đời sống tâm lý con người. Trên mặt bằng của cấp độ nhận thức khoa học, của lý luận từ “tâm lý” cũng được quan niệm không giống nhau tùy theo từng trường phái khoa học. Theo trường phái phân tâm học do Sigmund Freud [1956-1939] - bác sĩ thần kinh và tâm thần của con người về bản chất là hiện tượng vô thức. Vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý con người, mọi hoạt động trong tâm lý đều bắt nguồn trong vô thức và tùy theo tương quan của những tâm lý thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo những quy luật khác hẳn với ý thức [trong các loại vô thức thì đam mê tình dục có một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ đời sống tâm lý con người. Ông đã xác định được bộ máy tâm thần của con người bao gồm: “cái ấy”- là tất cả những gì con người có được từ khi mới sinh ra; “cái tôi”- xuất hiện từ nhu cầu của “cái ấy” để cân bằng với sự thỏa mãn trong thực tế; “cái siêu tôi”, xuất hiện vào lúc con người được 5 tuổi, là lực lượng đối lập kìm hãm sự thỏa mãn của cái tôi. Ông đã có công đóng góp to lớn trong lĩnh vực tâm lý, đã đưa ra giả thuyết về vô thức, tiềm thức là những mặt quan trọng trong đời sống con người, đưa ra một số cơ chế tâm lý như: cơ chế tự vệ, dồn nén, các mặc cảm,... nhưng do quá nhấn mạnh đến mặt vô thức, Sigmund Freud đã không thấy được bản chất trong ý thức con người, không thấy được bản chất xã hội-lịch sử của các hiện tượng tâm lý người. Tâm lý học hành vi do John Watson sáng lập,ông lại đi sâu nghiên cứu về hành vi, ông xem hành vi là tổ hợp các phản ứng của cơ thể người trước kích thích của môi trường bên ngoài. Theo ông mọi việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong,hành vi bên trong, hành vi tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Mọi việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này. Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn hóa thành những cử động cơ thể. Nhờ những cử động đó với tính cách là “một cơ quan biết phản ứng” hay “một hệ thống vật lý” thích nghi với môi trường để đảm bảo sự sống còn. Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tuân theo công thức S – R [Trong đó S là kích thích, R là phản ứng]. Với công thức S – R, Watson đã đặt cho thuyết hành vi mục đích cao cả là điều khiển hành vi động vật và con người. Ông lấy nguyên tắc “thử – sai” làm nguyên tắc khởi thuỷ điều khiển hành vi. Watson cũng cho rằng, tâm lý học với tư cách là khoa học về khoa học về hành vi có trách nhiệm vứt bỏ toàn bộ các thuật ngữ của tâm lý học cấu trúc và tâm lý học chức năng như ý thức, trạng thái và quá trình ý thức, lý trí và hình ảnh…Do lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu và dùng phương pháp khoa học tự nhiên, tâm lý học lần đầu tiên có dáng dấp tâm lý học khách quan. Ông dường như đã gạt bỏ khái Page |-2- niệm ý thức ra khỏi tâm lý ra khỏi tâm lý học, ông còn đồng nhất hành vi con người với hành vi động vật. Mãi tới đầu thế kỷ XX, khi Tâm lý học hoạt động [Tâm lý học Mác xít] ra đời, những chân lý khoa học đầu tiên mới lần lượt được kiểm chứng. Đây là cột mốc đánh dấu một chuyển biến cách mạng trong lịch sử tâm lý học. Quan điểm của Tâm lý học Mác xít trên nền tảng cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã vạch ra nguồn gốc, bản chất của tâm lý, ý thức con người, đồng thời cũng vạch ra đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của khoa học tâm lý. Chính vì thế, Tâm lý học Mác xít còn được gọi là “Tâm lý học hoạt động”. Trường phái này được xây dựng và phát triển mạnh m ở Liên Xô và các nước Đông u cũ với tư cách là trường phái tâm lý học chủ yếu, trụ cột của nền tâm lý học Xô Viết. Tâm lý học hoạt động ghi nhận sự đóng góp tiêu biểu của các nhà tâm lý học nổi tiếng Xô Viết lúc bấy giờ như: X.L Rubinstein [19 -1960], A.N. Leonchiev [1903-1979], A.R. Luria; L.X Vygotsky [1896-1934]… Dòng tâm lý này chủ trương:  Con người là tồn tại xã hội, lịch sử, lý trí, lao động và phạm trù hoạt động có vai trò to lớn, quan trọng trong nền tâm lý học Mác xít. Hoạt động là chìa khóa tìm hiểu, đánh giá, hình thành và điều khiển tâm lý.  Về ý thức: được sản xuất bởi các mối quan hệ xã hội giữa con người với thế giới xung quanh.Ý thức được tạo bởi tồn tại xã hội cuộc sống thực, các quan hệ thực của con người. Chính ý thức là tổ thành của cuộc sống, hoạt động giao lưu tạo ra tâm lý, ý thức và ngôn ngữ.  Tâm lý học Mác xít phân tích sự phát triển của tâm lý qua 1 giai đoạn: bào thai, sơ sinh, nhà trẻ, mẫu giáo, nhi đồng,thiếu niên, trưởng thành, trung niên và già lão. Bài biết đi sau “phân tích và chứng minh những cơ chế hình thành và phát triển các hiện tượng tâm lý người” để qua đó hiểu hơn về cơ chế hình thành và phát triển các hiện tượng tâm lý người. Page |-3- B. NỘI DUNG CHƢƠNG 1:NGUỒN GỐC TÂM LÝ CON NGƢỜI 1.1. Triết học và tâm lý học? Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ . Thuật ngữ Tâm lý học xuất phát từ hai từ gốc La tinh là “Psyche” [linh hồn, tâm hồn] và “Logos” [khoa học]. Vào khoảng thế kỷ XVI, hai tù này được đặt cùng nhau để xác định một vấn đề nghiên cứu, “Psychelogos” nghĩa là khoa học về tâm hồn. Đến đầu thế kỷ XVIII, thuật ngữ “Tâm lý học” [Psychology] được sử dụng phổ biến hơn và được hiểu như là khoa học chuyên nghiên cứu về hiện tượng tâm lý. Người nghiên cứu ngành khoa học này được gọi là nhà Tâm lý học. Có người cho rằng, Triết học là “khoa học của mọi khoa học”, điều này chưa thật chính xác. Tuy nhiên, Tâm lý học có nguồn gốc từ Triết học. Vì thế muốn tìm hiểu những tư tưởng làm tiền đề, nền tảng cho sự phát triển của Tâm lý học cần phải có cái nhìn tổng quan và hệ thống các tư tưởng của những nhà Triết học. Tâm lý người là một hiện tượng về tâm lý của con người xảy ra khi họ phản ứng lại với các hiện tượng xã hội. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiện tượng tâm lý con người. Mỗi một nhà nghiên cứu xã hội, và một nhà tâm lý học đều có những quan điểm riêng của mình về tâm lý con người trong sự phát triển của xã hội. Theo quan điểm duy tâm của các nhà nghiên cứu theo trường phái duy tâm cho rằng: Tâm lý con người không phải do bản thân người đó tạo ra, mà tâm lý của một người được thượng đế xác tạo ra và nhập vào con người. Qua đó các nhà nghiên cứu cho rằng tâm lý người không bị phụ thuộc bởi các yếu tố khách quan bên ngoài, đặc biệt là điều kiện sống, môi trường sống của họ không ảnh hưởng đến tâm lý của họ. Theo quan điểm duy vật tầm thường của các nhà khoa học, và tâm lý học theo trường phái này lại định nghĩa rằng: Tâm lý con người, hay tâm hồn con người được cấu thành từ vật chất, một thực thể hiện hữu, và do một vật chất cụ thể tạo ra. Từ đó họ đồng nhất và đưa ra quan điểm về tâm lý người là sự đồng nhất của vật lý, sinh lý và tâm lý với nhau. Và họ phủ nhận bản chất xã hội của tâm lý, họ cho rằng tâm lý người mang bản chất cá nhân chứ không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội bên ngoài, họ phủ nhận đi tích tích cực và năng động của tâm lý, ý thức con người. 1.2. Các trƣờng phái tâm lý: 1.2.1. Tâm lý học thời cổ đại: Trong các di chỉ của người nguyên thuỷ đã có những biểu hiện chứng tỏ con người có quan niệm về sự tồn tại của “hồn” “phách” sau cái chết của thể xác. Những bộ Kinh của Ấn Độ thời cổ đại đã đề cập đến “hồn” và cũng đã có những nhận xét về tính chất của “hồn”. Ngoài ra, một số học thuyết thời cổ đại cũng đề cập đến tâm tính của con người. Đó là những ý tưởng tiền khoa học về tâm lý. Học thuyết m Dương-Ngũ Hành cùng với các tác gia tiêu biểu của Trung Quốc cũng đã đóng góp những ý tưởng sơ khai cho sự phát triển của Tâm lý học. Khổng Tử [551-479 TCN] và các học trò tiêu biểu của mình cũng đã nói đến chữ “Tâm”. Tính “Thiện” xuất phát từ “Tâm” mà khi sinh ra ai cũng có. “Tâm” chi phối đời sống tâm lý Page |-4- và hành vi của con người. Nhân tướng học cũng cho rằng “tướng tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt”. Qua những chi tiết trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng từ xa xưa con người đã nhận biết vai trò và tác động của yếu tố tâm lý đối với đời sống. 1.2.2.Tâm lý người theo quan điểm của Triết học duy tâm: Hệ tư tưởng duy tâm cho rằng “linh hồn” của con người là do các lực lượng siêu nhiên như Thượng Đế, Trời, thần thánh… tạo ra. Linh hồn là cái có trước, còn thế giới vật chất là cái có sau. Nhà triết học duy tâm cổ đại Platon [4 8-348] cho rằng, tâm hồn là cái có trước, thực tại là cái có sau và tâm hồn do Thượng Đế sinh ra. Tâm hồn trí tuệ nằm ở trong đầu, tâm hồn dũng cảm nằm ở ngực và chỉ có ở tầng lớp quý tộc, tâm hồn khát vọng nằm ở bụng và chỉ có ở tầng lớp nô lệ. D. Hium [1811- 1916], một nhà duy tâm thuộc trường phái bất khả tri cho rằng thế giới là những kinh nghiệm chủ quan, con người không thể nhận biết được tồn tại khách quan và phủ nhận cơ sở vật chất của sự vật. 1.2.3. Tâm lý người theo quan điểm của Triết học duy vật Người và động vật đảm nhiệm chức năng dinh dưỡng, vì thế còn được gọi là tâm hồn dinh dưỡng. Tâm hồn động vật đều có ở người và động vật, đảm nhiệm chức năng cảm giác, vận động, vì thế còn được gọi là tâm hồn cảm giác. Tâm hồn trí tuệ chỉ có ở người hay còn được gọi là tâm hồn suy nghĩ. Đại diện của quan điểm duy vật với tâm lý con người còn phải kể đến tên tuổi của các nhà triết học như: Talet, Heraclit, Democrit, Socrate. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà Triết học trên thuộc trường phái duy vật sơ khai chất phát. 1.2.4. Những tư tưởng tâm lý học từ nửa đầu thế kỷ XIX trở về trước: Trong suốt thời kỳ “đêm trường trung cổ”, Tâm lý học mang tính huyền bí. Tri thức và các tư tưởng tiến bộ bị kìm hãm và thay vào đó là sự thống trị của nhà thờ và tu viện. Vì thế, các tư tưởng ở giai đoạn này mang nặng tính “kinh viện”: Triết học duy vật cho rằng: tâm lý, tâm hồn là một, tâm lý gắn với thể xác. Tâm lý, tâm hồn đều cấu tạo từ vật chất. Người đầu tiên bàn về tâm hồn là Arixtốt [384-322 TCN]. Aristotle cho rằng, tâm hồn gắn liền với thể xác. Có 3 loại tâm hồn: tâm hồn thực vật, tâm hồn động vật và tâm hồn trí tuệ. Tâm hồn thực vật có cả ở Đến thế kỷ XII, René Descartes [1596-165 ] cho rằng tâm hồn và vật chất là hai thực thể song song tồn tại, không thể biết được tâm lý của con người. Con người phản xạ như một chiếc máy. Thế kỷ XVIII, Tâm lý học bắt đầu có tên gọi. Nhà triết học người Đức-Vônphơ đã chia nhân chủng học ra thành hai khoa học: khoa học về cơ thể và Tâm lý học. Năm 173 , ông xuất bản cuốn “Tâm lý học kinh nghiệm”. Năm 1734 “Tâm lý học lý trí” của ông được xuất bản và Tâm lý học ra đời từ đó. Nửa thế kỷ XIX, L.Phơ bách đã đưa chủ nghĩa duy vật lên đỉnh cao thời bấy giờ. Ông là nhà duy vật lỗi lạc trước khi chủ nghĩa Mác ra đời. Theo L.Phơ bách, tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi não người, nó là sản phẩm của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não người. Tâm lý là hình ảnh của thế giới khách quan. Page |-5- CHƢƠNG 2: NGUYÊN NHÂN SỰ KHÁC NHAU VỀ TÂM LÝ GIỮA CON NGƢỜI VỚI CON NGƢỜI 2.1. Cấu trúc bộ não. Bộ não là cơ quan quyền lực nhất của cơ thể, tuy vậy chỉ cân nặng có ba pounds. Não có ba phần chính: Đại não chiếm đa số thể tích của hộp sọ, nhiệm vụ giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến trí nhớ, suy tư và cảm xúc, đồng thời cũng điều khiển cả vận động. Tiểu não nằm ở phía sau đầu, bên dưới đại não, nó điều khiển sự phối hợp và thăng bằng. Cuống não nằm dưới đại não ngay phía trước tiểu não, nhiệm vụ nối não bộ với tủy sống và kiểm soát các chức năng tự động chẳng hạn như hô hấp, tiêu hóa, nhịp tim và huyết áp. Bộ não được nuôi dưỡng bằng những mạng mạch máu phong phú nhất của cơ thể. Với từng nhịp tim, các động mạch mang khoảng tới 25% lượng máu cơ thể lên bộ não của , nơi có hàng tỉ tế bào sử dụng % lượng oxy và năng lượng trong máu mang tới. Khi đang tập trung suy nghĩ, bộ não của quý vị có thể dùng tới 5 % năng lượng và oxy. Toàn bộ mạng lưới mạch máu ngoài các động mạch, còn bao gồm cả tĩnh mạch và các mao mạch. Vỏ não: “Các nếp nhăn tư duy” .Bề mặt bộ não có nhiều nếp cuộn gấp đó là lớp vỏ ngoài chuyên biệt hóa của đại não gọi là vỏ não. Các nhà khoa học đã “v bản đồ” vỏ não bằng cách nhận dạng những vùng có mối liên kết chặt ch với các chức năng đã được xác định. Các chức năng đặc biệt của từng phần ở vỏ não là nhận biết các cảm giác của cơ thể, thị giác, thính giác và khứu giác đối với môi trường bên ngoài, tạo ra tư duy, giải quyết các vấn đề và lập kế hoạch, tạo ra và lưu trữ vào ký ức, điều khiển các chức năng tự động. Bộ não chia làm hai bán cầu trái và phải. Các chuyên gia không chắc chắn là “não trái” và “não phải” khác nhau về chức năng ra sao, ngoại trừ rằng: Bán cầu não trái điều khiển cử động của nửa bên phải cơ thể.Bán cầu não phải điều khiển cử động nửa thân bên trái, Ở con người, đa số vùng ngôn ngữ nằm chủ yếu trên bán cầu não trái, ở con người, đa số vùng ngôn ngữ nằm chủ yếu trên bán cầu não trái, hình ảnh phân tích chụp cắt lớp hình ảnh phát xạ hạt nhân [PET] trên bán cầu não trái thể hiện các vùng đặc trưng của hoạt động não gắn liền với, đọc hiểu chữ viết, nghe hiểu tiếng nói, tư duy qua lời nói, phát ngôn bằng lời nói. Qua cấu trúc bộ não và các chức năng của từng bộ phận cụ thể của hai bán cầu não trái và phải, cho chúng ta thấy bộ não có vai trò quan trọng trong cuộc sống sinh hoạt cũng như giao tiếp hàng ngày của con người. Chính vì vậy mỗi cá thể con người có những suy nghĩ, hành động cũng như tâm lý, ý thức khác nhau cũng phụ thuộc vào yếu tố cấu tạo của của não bộ. Cho nên cấu trúc bộ não cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến hình thành tâm lý của mỗi con người khác nhau 2.2. Môi trƣờng sống, hoạt động xã hội: “Con người luôn chịu sự tác động của các mối quan hệ xã hội nhất định. Quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người. Trong luận cương về Feuerbach, Marx đã từng khẳng định “bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, vốn có của từng cá nhân riêng lẻ, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Quy luật cơ bản chi phối sự phát triển của xã hội loài người là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tâm lý của con người chịu sự tác động của các quy luật xã hội, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất. Con người sinh ra và lớn lên trong một môi trường nhất định. Môi trường đầu tiên là môi trường gia đình, làng xóm; lớn hơn nữa là địa

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề