Trên hệ thống sông hồng xây dựng nhiều nhà máy thủy điện vì

Việt Nam có một nền kinh tế phát triển nhanh chóng, xu hướng công nghiệp hóa cần đến việc gia tăng các nguồn năng lượng như là năng lượng điện. Để đáp ứng nhu cầu này, Việt Nam đã xây dựng nhiều đập thủy điện trên các dòng sông. Những đập này đã có tác động đáng kể đến môi trường cũng như cuộc sống của những người dân địa phương, những người có sinh kế phụ thuộc vào sông.
Nhiều người dân và cộng đồng đã di dời do việc xây dựng các đập. Họ là những người nghèo nhưng có cuộc sống lâu đời dọc theo sông, trồng trọt và đánh bắt cá trên sông. Các cộng đồng này phải di chuyển đến các khu vực không có đủ đất để canh tác, cung cấp nguồn thực phẩm cho cả gia đình, các khu vực này cũng thiếu việc làm và thường xuyên xảy ra tình trạng thiếu nước.

Nền kinh tế tăng trưởng ổn định của Việt Nam trong hai thập kỷ qua đã dẫn đến một nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng. Để đáp ứng nhu cầu gia tăng này, Chính phủ Việt Nam đang phát triển công nghiệp thủy điện, dự kiến có thể cung cấp hai phần ba năng lượng của đất nước. Ở miền Trung Việt Nam trong suốt hơn 20 năm qua, nhiều dự án thủy điện có quy mô và công suất khác nhau đã được quy hoạch và xây dựng, đặc biệt là từ Quảng Bình đến Phú Yên và các tỉnh ở Tây Nguyên. Nhìn chung, thủy điện hiện đang đóng góp khoảng 35 – 40 % sản lượng năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, số lượng gia tăng nhanh chóng của các nhà máy thủy điện ở miền Trung Việt Nam đã  làm gia tăng các vấn đề môi trường – xã hội và chúng ta đang phải đối mặt với những hậu quả bất lợi cho sự phát triển bền vững của toàn bộ khu vực.

Thủy điện đòi hỏi một lượng nước lớn từ các con sông và phá hủy hệ sinh thái sông. Việc vận hành nhà máy thủy điện và nạn phá hủy rừng đang tạo ra xung đột về sử dụng nước; hủy hoại sinh kế và là nguyên nhân gây ra sự di cư của nhiều cộng đồng, những người có cuộc sống truyền thống lâu đời cạnh các con sông. Những người dân vùng hạ lưu cũng đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến nguồn nước và tác động xuyên biên giới bao gồm lũ lụt, thiếu nước và ô nhiễm nguồn nước.

Chính phủ Việt Nam đã có nghị định về môi trường tự nhiên cần phải được bảo vệ từ những tác động tiêu cực của việc phát triển công nghiệp không kiểm soát. Theo nghị định 29/2011/ND-CP [Cung cấp đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường] đưa ra các đánh giá môi trường có thể thực hiện trước khi phê duyệt xây dựng một dự án được tiến hành. Thông tư 26/2011_TT­_BTNMT cung cấp các thông tin chi tiết để hướng dẫn chính quyền địa phương và các nhà đầu tư thông qua đánh giá các tác động môi trường. Tuy nhiên, có những lỗ hổng đáng kể và không nhất quán giữa thực tế thực hiện và quá trình ra quyết định của chính phủ trong thời gian qua.

Việc gia tăng xây dựng đập  chính là nguyên nhân tái định cư bắt buộc của hàng ngàn người dân tộc thiểu số, người nghèo cũng như ảnh hưởng đến hàng chục ngàn người sống ở vùng hạ lưu, gây ra lũ lụt thường xuyên và bất ngờ. Ví dụ khi nhà máy vận hành hồ chứa nhưng không cảnh báo trước hoặc không đủ thời gian cho người dân vùng hạ lưu chuẩn bị phòng chống lũ trong mùa mưa, thiếu hụt nguồn nước và chất lượng nước bị ảnh hưởng trong mùa khô.

Cụ thể một số kết quả của vận hành các đập thủy điện trên hệ thống sông:

  • Các công ty thủy điện xả nước vào các thời điểm phù hợp với các hoạt động của nhà máy chứ không quan tâm đến những ảnh hưởng sẽ có đối với vùng hạ lưu, ví dụ như vào mùa mưa, gây ra ngập lụt nghiêm trọng.
  • Thay đổi dòng chảy của nước là nguyên nhân gây nên xói lở bờ sông, nơi canh tác nông nghiệp của người dân.
  • Chất lượng nước vùng hạ lưu bị giảm sút.
  • Người nông dân không có đủ nước cho các hoạt động nông nghiệp.
  • Đánh bắt cá bị giảm, sạt lở bờ sông và tác động đến nông nghiệp dọc sông, nguồn nước cho sinh hoạt và sức khỏe.
  • Ở các cửa sông hiện tượng xâm nhập mặn tăng lên.
  • Những thay đổi gây ra các tác động xấu đối với nguồn lợi thủy sản. Một số loài không thể sống sót và sinh kế của các ngư dân bị đe dọa.
  • Những người di dời hầu như phải đối mặt với những khó khăn sau khi tái định cư.
  • Các cộng đồng phải tái định cư trên vùng đất nghèo, không phù hợp với kỹ thuật canh tác truyền thống của họ. Họ phải học phương thức canh tác nông nghiệp khác nhau và sẽ mất nhiều thời gian. Hoặc là quay lại sử dụng các mô hình cũ, không hợp pháp như đốt rừng làm nương rẫy và phá rừng. Ngoài ra, họ quay lại các vùng đất cũ trước đây từng sinh sống ở gần đập để khai thác rừng và sản xuất nông nghiệp. Đây là nguyên nhân của những xung đột giữa những người dân tái định cư và các nhà đầu tư thủy điện, giữa chính quyền và người dân địa phương.
  • Hầu hết những người dân tái định cư không có đủ đất để sản xuất và những khu vực tái định cư đất thường rất xấu hoặc thiếu nước.
  • Nhiều người dân tái định cư bắt buộc phải tìm kiếm việc làm ở bên ngoài. Thường là những công việc thời vụ ở các đồn điền và đòi hỏi nhiều về thể lực, chỉ thích hợp với thanh niên có sức khỏe.
  • Khi những người tái định cư không thể trồng trọt thì họ phải cố gắng tìm việc ở bên ngoài để mua thức ăn. Điều này có nghĩa là một số thành viên của gia đình phải đi xa, thường là các cô gái trẻ đến các thành phố [như các nhà máy ở thành phố Hồ Chí Minh] để làm việc và gửi tiền về hỗ trợ gia đình. Điều này làm phá vỡ cấu trúc gia đình và cũng đặt các cô gái trẻ trước những rủi ro khi ở một mình ở thành phố.
  • Tái định cư bắt buộc gây ra áp lực cho tất cả các thành viên cộng đồng và làm gia tăng các vấn đề xã hội như bạo lực gia đình và cấu trúc cộng đồng bị phá vỡ.

Bày tỏ quan điểm về chủ trương Dự giao thông thủy xuyên Á trên sông Hồng kết hợp thủy điện theo hình thức Hợp đồng BOO của Công ty TNHH Xuân Thiện, Bộ NN&PTNT cho rằng, phải làm rõ tác động của dự án đến ngập lụt thượng lưu, khả năng thoát lũ, bồi lắng trước công trình, xói sau công trình, an toàn hệ thống đê điều, tiêu thoát nước, lấy nước của hệ thống công trình thủy lợi hai bên bờ sông; tác động đến mất cân bằng bùn cát vùng hạ du do lượng bùn cát giữ lại khi có công trình; tác động đến mất đất nông nghiệp, đất rừng, di dân tái định cư khi xây dựng công trình. Ngoài ra, dự án còn phải phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước lưu vực sông, quy hoạch phát triển điện lực.
Còn đại diện Bộ Xây dựng cho biết, các nhà máy thủy điện thuộc Dự án dự kiến đầu tư chưa có trong Quy hoạch phát triển diện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 1208/QĐ-TTg ngày 21/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ.


                       ​Thủy điện trên sông Hồng không có trong quy hoạch  Bên cạnh đó, việc xây đựng đập dâng nước và âu tàu kết họp nhà máy thủy điện có nhiều tác động đến môi trường, dòng chảy, hệ sinh thái bên bờ sông Hồng, ảnh hưởng trực tiếp đến thủy lợi, tiêu thoát lũ... Vì vậy, cần đề ra các phương án giải quyết những phát sinh thực tế, đảm bảo quyền lọi cho địa phương trong phạm vi dự án và quyền lợi của nhà đầu tư. Đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam đánh giá, phạm vi và quy mô dự án rất lớn và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực và các địa phương. Tuy nhiên, do dự án chưa có trong các quy hoạch chuyên ngành liên quan như: điều chỉnh bổ sung quy hoạch giao thông vận tải đường thủy nội địa, quy hoạch thủy lợi, tiêu thoát lũ, sử dụng nguồn nước mặt sông Hồng, quy hoạch phòng chống lũ và đê điều, nhu cầu sử dụng đất và quy hoạch sử dụng đất, các dự án thủy điện chưa được phê duyệt quy hoạch bậc thang phát triến thủy điện trên sông Hồng. Vì vậy, đề nghị chủ đầu tư cần hoàn thiện hồ sơ bổ sung, hiệu chỉnh quy hoạch ngành có liên quan và trình cấp có thẩm quyền xem xét khả năng bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch chuyên ngành theo quy định. Trong khi đó, các chuyên gia thủy lợi hàng đầu Việt Nam cũng cho rằng, cần thật cẩn trọng và không nên "động" vào sông Hồng.

Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, GS. TS Vũ Trọng Hồng bày tỏ,  tôi cho rằng nếu động vào sông Hồng, nhiều vấn đề quan trọng chưa chắc các nhà khoa học đã tính được. Trước đây, để tính những diễn biến của dòng sông cổ này khi làm thủy điện Hòa Bình, người ta đã phải lập chương trình để chạy, xem thử việc làm thủy điện Hòa Bình thì dòng sông Hồng có bị thay đổi độ dốc không.

Đến khi có kết luận độ dốc không thay đổi mới làm nhưng bây giờ thì sông Hồng đã dốc rồi. Bộ NN&PTNT đã lên tiếng lòng sông tụt xuống 1m .

Như vậy, nếu chúng ta làm tiếp mấy cái đập nữa, lòng sông sẽ tụt xuống bao nhiêu? Khi lòng sông tụt xuống, hai bên bờ bị phá, cửa sông bị phá, nước biển xâm lấn vào thì xâm nhập mặn sẽ tác động tới cả vùng đồng bằng sông Hồng như Thái Bình, Nam Định, hậu quả là khôn lường.

"Tôi cho rằng đừng đặt câu hỏi về cái lợi hôm nay mà phải đặt những câu hỏi về cái mất để tính cho cả trăm năm sau.

Bài học đã có rồi, đó là khi Trung Quốc làm thủy điện ở thượng nguồn thì chúng ta đã khổ vì phụ thuộc nguồn nước rồi. Nếu bây giờ chính chúng ta lại làm thủy điện, chắc khó lường được các hậu quả xảy ra", GS Vũ Trọng Hồng cho biết.

Chủ tịch Hội đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam Phạm Hồng Giang cũng cho rằng, việc làm các đập thủy điện trên sông Hồng sẽ gây ngập lụt diện rộng, bài toán này cần được tính đến. Đặc biệt, nếu xây đến 6 nhà máy thủy điện thì lượng phù sa về đồng bằng sông Hồng sẽ cạn kiệt. 

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề