Văn bản lấy chồng chung được Việt theo phong cách ngôn ngữ nào
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
1. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật: Văn học là nghệ thuật ngôn từ .Người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo "Chất liệu" ngôn ngữ của dân tộc để làm nên tác phâím của mình, xây dựng hình tượng nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm lânù được. Văn hào Nga Chekhov đã khẳng định " Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả"
III. Phong cách ngôn ngữ thơ Hồ xuân Hương:
1.Xuân Hương, nhà thơ dòng Việt - " Bà chúa thơ Nôm"
-Tiếng gà văng vẳng ì gáy trên bom - Thân này đâu đã chịu già tom. ( Tự tình ) Nó biến hóa để phổ vào câu thơ những tục ngữ, thành ngữ, ca dao :
Năm thì mười họa hay chăng chớ Không có nhưng có mới ngoan . (Dở dang)
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo (Chùa quán sứ ) Chém cha cái kiếp lấy chồng chung (Lấy chồng chung ) Rúc rích thây cha con chuột nhắt Vo ve mặc mẹ cái ong bầu. ( Quan thị ) Thơ của Hồ Xân Hương sử dụng nhiều từ láy .Có loại thông thường : cheo leo, xanh rì , đỏ lóet, lún phún, phau phau, leo lẻo.. .Có loại lạ lùng : Mõm mòm mom, Hỏm hòm hom, dở dom...
...Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn (Hang Cắc cớ)
Một trái trăng thu chín mõm mòm Nẩy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom (Hỏi trăng) Có loại gợi âm thanh độc đáo: Gió giật sườn non kêu rắc rắc Sóng dồn mặt nước vỗ long bong (Kẽm Trống) Có loại gợi hình:
Cỏ gà lún phún leo quanh mép Cá diếc le te lách giữa dòng (Giếng nước) Dựa vào đặc điểm từ láy tiếng Việt ( có giá trị biểu đạt cao) Xuân Hương đã khai thác triệt đê ønó và biến nó thành đặc điểm của riêng mình làm cho lời thơ có dáng dấp tinh nghịch và độc đáo . Thế giới vô tri vô giác trong thơ bà luôn cựa quậy, động đậy, có sức sống tràn trề, mãnh liệt quá chừng. Thơ của Xuân Hương tươi trẻ giản dị và hồn nhiên , trong sáng, tạo ấn tượng đậc biệt độc đáo. Những từ ngữ : Con ốc, qủa mít ,cái quạt , miếng trầu ,cây đu...là những ngôn ngữ thông thường nhưng do biết cách chọn lọc với hoàn cảnh nên lời thơ có được cái trong sáng của tiếng nói nhân dân, có hương vị tươi ngon của mớ rau vừa mơí hái rất dân dã, rất Việt Nam . Ngôn ngữ thơ Xuân Hương là ngôn ngữ đại chúng. Thơ của bà không chỉ dùng từ quần chúng mà còn dùng đủ các cách tu từ quần chúng , một câu hai ý hoặc ba ý , hiểu theo ý nào cũng được: Thanh cũng được , thô cũng được . Thơ của Bà thường vận dụng một số cách nói quen thuộc trong ca dao, thành ngữ, có cả khẩu ngữ , ví dụ như: sáng banh, trưa trật..
" Không có nhưng mà có mới ngoan" “ Không chồng mới chửa ấy mới ngoan Có chồng mà chửa thế gian sự thường "
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ, 2.Cách sử dụng ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương a. Sự vi phạm qui tắc tu từ tạo sự " Lệch chuẩn " ngôn ngữ để tạo nghĩa. Hồ Xuân Hương sử dụng ngôn ngữ để tạo hình, tạo nhạc và cuối cùng tạo nghĩa.Cách tạo nghĩa lơ lững có lẽ cơ bản nhất vẫn là sự lệch chuẩn ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ đời thường của Xuân Hương . Những từ ngữ : Lá đa , nguyệt, hoa rữa, miếng trầu , cái bánh trôi, động Hương Tích ,thu, lạnh , Lạch Đào Nguyên....là những ký hiệu ngôn ngữ di chuyển từ cái miêu tả đến cái ẩn dụ vô cùng đa dạng, biểu đạt sức sống có tầm cở vũ trụ cái vĩnh cửu .Cái ngạc nhiên, cái đột ngột, cái bật cười thấm thía nỗi buồn tạo nên bởi cái xô lệch không ăn khớp là những đặc điểm trong phong cách thơ nôm của Xuân Hương. Nếu liên kết các bài thơ: Kẽm trống, Động Hương Tích...Đèo Ba Dỗi, Đá ông chồng bà chồng ...trong một văn bản chúng ta có thể thấy ở trong những bài thơ này là những âm điệu mạnh, nhiều vần nhiều âm rất táo bạo thông qua một lớp từ ngữ được Xuân Hương sử dụng như: Phòm, ngoàm, hỏen, teo...Chính cách sử dụng ngôn ngữ khác lạ này đã chuyển nghiã bình thường thành nghĩa ẩn dụ có nghĩa là chuyển nghĩa thô thành nghĩa thực, nghĩa ngầm, nghĩa tâm tình . Mỗi bài thơ là một sự phối hợp liên kết chặt chẽ giữa các động từ chỉ hoạt động, các tình tính từ chỉ màu sắc âm thanh, hình dáng ...các trạng từ chỉ phẩm chất để biểu đạt tư tưởng tình cảm thái độ của nhà thơ. Vì le,î đó ta thấy thơ Hồ Xuân Hưong có nhiều nghĩa và nghĩa nào cũng lấp lửng. Ở Hồ Xuân Hương các chi tiết tạo nên sự lấp lửng nghĩa của bài thơ, câu thơ là cả một lớp từ ngữ được lựa chọn chính xác, thích hợp cho cả cái lộ lẫn cái ẩn. Đó là cả một hệ thống ngôn ngữ tương ứng tạo ra một ngữ cảnh trong đó các từ, nhóm từ nâng đỡ nhau, dựa vào nhau đểí thực hiện mệnh lệnh của người cầm bút ..Vì vậy, chỗ tài tình nhất của Xuân Hương có lẽ sự lấp lửng ý nọ, ý kia ở một hình tượng, một từ, một ngữ, một cách nói. Điều mà Bakhtin gọi là "Siêu ngôn ngữ", "xuyên ngôn ngữ " đã được chứng minh trong ngôn ngữ học hiện đại . Xuân Hương không nghiên cứu ngôn ngữ học nhưng từ ngữ của Bà dùng vốn là từ ngữ hoạt động nên ngoài cấu trúc cố định còn hàm chứa nghĩa xã hội, tâm lý .nghĩa liên hội, liên tưởng do ngữ cảnh , do dụng ý siêu ngôn ngữ của tác giả . Chúng ta đến thăm "Động Hương Tích "( Chùa Hương) vào mùa trẩy hội :
Người quen cõi phật chen chân xọc
Người quen cõi phật chen chân bước
Hiền nhân quân tử ai là chẳng Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá bạc như vôi. Lời thơ vẫn là một sự mong muốn " Có phải duyên thì thắm lại " chứ không phải là "Quyện lại ", "kết lại ": "xe lại " Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo này nữ sĩ đã thể hiện một khao khát chứa biết bao đầm ấm và xao xuyến . Thế nhưng ta nghe như tan vỡ ra, rạn nứt , mất đi .Thành ngữ "bạc như vôi " được đưa vào như là một sự biểu hiện chua chát đắng cay của một người đàn bà từng traỉ lòng trước nhân tình thế thái . Qua miếng trầu hôi miếng trầu cay nữ sĩ dường như muốn giới thiệu thân thế của mình bằng một giọng điệu đùa cợt nhưng ẩn chứa cả một tấm lòng khát khao hạnh phúc lứa đôi đến cháy bỏng. Trong thơ của Xuân Hương chúng ta thường bắt gặp mượn cảnh để ngụ tình, mượn vật để nói người. Cái quạt, quả mít , chiếc bánh trôi .....là những vật thể bình thường. Có thể nói nó là một ẩn dụ hoặc nhân hóa cũng được .Đặc biệt khi sử dụng từ ngữ lệch chuẩn trong cách biểu đạt , làm cho câu thơ, lời thơ trở nên sinh, động , uyển chuyển và giàu ý nghĩa. Trong hai bài thơ "Bánh trôi nước" và "Quả mít" đã sử dụng một tiếng Em không chỉ dừng lại thủ pháp nghệ thuật nhân hóa và đâu chỉ đơn giản là chuyện "kỹ thuật” mà trong tiếïng ấïy vẫn chứa đựng vấn đề tâm lí . Xuân Hương nhân hoá đẻ nâng vật ngang lên với người, để gắn cho nó những cảm xúc cảm giác như ngưòi . Trong những các bài thơ nói về phụ nữ có lẽ"Bánh trôi nước " là bài thơ hay nhất .Nhà thơ đã mượn hình ảnh chiếc bánh tôi để thể hiện vẻ đẹp về hình thể , tâm hồn của người con gái thân phận bé nhỏ , dù đời có phũ phàng em vẫn giữ phẩm giá tâm hồn cao đẹp của mình "Mà em vẫn giữ tấm lòng son" . Cái hay nhất nhà thơ sử dụng từ mà nói lên một cách dõng dạc, dứt khoát sự kiên trì và cố gắng đến cùng để giữ "Tấm lòng son " - Biểu hiện phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến " trọng nam khinh nữ" .b. Sự vi phạm lệch chuẩn ngôn ngữ như một hình thức bộc lộ cá tính sáng tạo của Xuân Hương. KẾT LUẬN Có thể không quá đáng khi nói rằng : Thơ Xuân Hương đã làm đưọc nhiều điều mà chúng ta tưởng chừng không thể làm được , cái không thể dưói bàn tay điêu luyện của Xuân Hương đã trở thành có thể. Trước và sau bà không có ai làm đưọc điều đó . Một điều khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, ngôn ngữ thơ của nữ sĩ chúng ta đều nhận thấy nội dung và hình thức gắn vào nhau quá chặt chẽ. Tất cả các phương tiện nghệ thuật đều kết hợp mật thiết với nhau để thể hiện nội dung tư tưởng, tình cảm. Cả nội dung và hình thức thơ Hồ Xuân Hương đều bắt nguồn sâu sắc từ trong đời sống nhân dân, đó là điều đã làm cho thơ bà trở nên bất tử. Bà là người góp phần làm phong phú vốn tiếng Việt và giá trị của nó. Chính vì vậy khi tìm hiểu phong cách thơ Hồ Xuân Hương chúng ta phải thấy rõ điêìu naỳ. Xuân Hương xứng đáng được mệnh danh “Bà Chúa thơ Nôm”.(Sưu tầm)
Có thể nhận thấy rằng trên thế giới những nhà thơ thiên tài trữ tình không nhiều lắm và càng hiếm hoi khi nhìn sang lĩnh vực thơ trào phúng nhất là đối với phụ nữ. Nhưng ở Việt Nam ta lại có một thiên tài trào phúng và lại là nữ. Ở Hồ Xuân Hương không phải chỉ có tiếng cười, lời chế giễu... mà trên những cái ấy là tiếng kêu than uất ức, thậm chí có cả nước mắt mà bà cố nuốt đi. Đọc thơ Xuân Hương, ta càng thấy thấm thía với ý của Xuân Diệu : “Những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng lời nói, họ ném cả trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”. Cuộc đời Hồ Xuân Hương và thơ bà là một hiện tượng hết sức phức tạp, nhiều điều còn chưa rõ ràng nhưng dù sao với những tài liệu mà hiện chúng ta đang có thì con người và thơ Hồ Xuân Hương là một niềm tự hào trong văn học Việt Nam – một nữ thi sĩ đầy bản lĩnh và tài hoa. |