Vì sao vỏ của các loài giáp xác được xem như bộ xương ngoài

Mục lục

Kích thướcSửa đổi

Động vật giáp xác có thể được chia thành hai nhóm chính dựa trên kích thước của chúng.

  • Nhóm có kích thước lớn: Bao gồm các đại diện của các lớp Branchiopoda [Chân mang], Copepoda [Chân chèo], Cirripedia [Chân tơ]
  • Nhóm có kích thước nhỏ: Bao gồm các loài có kích thước hiển vi cho tới kích thước khoảng 5cm. Hầu hết các loài này sống ở biển và là thành phần quan trọng của sinh vật phù du, đóng vai trò lớn trong chuỗi thức ăn.

Nhiều loài chân chèo là nguồn thức ăn cho cá nhỏ, thậm chí chúng là những con vật ký sinh trên da hay mang cá. Trong nhóm này, được biết rõ nhất là các thành viên trong giống Daphnia [rận nước] và Cyclops [thuộc bọ chân chèo].

Bộ chân đều [Isopoda] là nhóm duy nhất có đại diện là thành viên trên cạn thực sự. Trong nhóm này có thể kể đến rận cây, mọt gỗ, hay rệp tròn. Những sinh vật nhỏ này có thể được tìm thấy ở dưới các khúc cây đổ, dưới các tảng đá và những nơi ẩm thấp khác. Khi bị làm phiền chúng thường cuộn người lại vào bên trong bộ xương ngoài [lớp vỏ kitin].

Hình dạngSửa đổi

Tất cả động vật giáp xác có hình dạng phần đầu-ngực giáp với nhau, cơ thể được bao bọc với một bộ xương ngoài bằng kitin, nhờ lớp vỏ thấm calci và vôi hóa làm cho vỏ giáp xác rất cứng cáp, có loại vỏ có màu rất đẹp hay rất mỏng manh và trong suốt [như ở rận nước]. Vì lớp vỏ cố định nên nó phải được thay thế định kỳ khi con vật tiến hành quá trình biến thái [từ dạng ấu trùng bơi tự do cho đến khi trưởng thành] hay chỉ đơn giản là phát triển nhô ra ngoài lớp vỏ. Dạng ấu trùng bơi tự do đặc trưng cho giáp xác được gọi là ấu trùng Nauplius, là dạng có cơ thể không phân đốt, một mắt và 3 cặp chân giả.

Cũng như tất cả các thành viên khác trong ngành Động vật chân đốt, giáp xác trưởng thành có cơ thể và chân phân đốt. Các đốt thường liên kết lại tạo thành 2 phần phân biệt là đầu-ngực và bụng. Phần lớn động vật giáp xác trong nhóm lớn có phần đầu và ngực hợp lại thành phần đầu-ngực, phần này được bảo vệ bởi một phần của bộ xương ngoài khá lớn và được gọi là giáp đầu ngực. Trên đầu có hai cặp râu, một mắt điểm [điểm mắt], hai mắt kép và 3 cặp phụ miệng. Các phần phụ của giáp xác đã trải qua quá trình tiến hóa để thích nghi một cách đa dạng với các chức năng khác nhau như: bơi, bò, cơ quan cảm giác. Nhiều loài có cặp chân ngực thứ nhất biến đổi thành vuốt hoặc càng. Các mang thường được gắn ở phần gốc của các cặp chân ngực, vận động của chân ngực sẽ tạo dòng nước chảy qua mang, giúp cho quá trình hô hấp diễn ra.

Sinh sảnSửa đổi

Trừ chân mang là phân lớp nguyên thủy có sinh sản đơn tính, còn lại hầu hết lớp giáp xác đều sinh sản hữu tính, có giới tính phân chia rõ ràng. Nhiều loài trứng được giữ ở dưới các đốt bụng của con cái.

Lịch sử địa chất họcSửa đổi

Mặc dù các hóa thạch giáp xác hiếm hơn so với trùng ba lá nhưng số lượng các dạng của chúng khá phổ biến trong các lớp địa chất thuộc kỷ Creta cũng như trong Đại Tân sinh. Hầu hết những giáp xác nhỏ như tôm có bộ xương ngoài khá mỏng manh, do vậy các hóa thạch của chúng thường không đầy đủ. Tuy nhiên, các nhóm giáp xác như cua và tôm hùm có bộ xương ngoài dày hơn và nó thường được làm cứng bởi CaCO3, do vậy các hóa thạch của chúng thường tốt hơn. Các hóa thạch của động vật hầu như rất hiếm và người ta biết rất ít về lịch sử của chúng từ Đại Trung sinh trở về trước. Các mẫu được bảo tồn tốt nhất được tìm thấy trong các hóa thạch thuộc kỷ Creta và Đại Tân sinh.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Calman, William Thomas [1911]. “Crustacea”. Trong Chisholm, Hugh [biên tập]. Encyclopædia Britannica. 7 [ấn bản 11]. Cambridge University Press. tr.552.

Vai tròSửa đổi

Bộ xương ngoài có chứa các thành phần bền cứng giúp thực hiện một loạt những chức năng như bảo vệ, bài tiết, cảm nhận, nâng đỡ cơ thể, thu nhận thức ăn và giúp chống mất nước cho các động vật trên cạn. Bộ xương này cũng có vai trò bảo vệ khỏi sâu bệnh và động vật ăn thịt, nâng đỡ và tạo khung để các cơ bám vào.[2]

Một số loài sinh vật, chẳng hạn như một số loài Trùng lỗ, tạo nên bộ xương ngoài của mình bằng cách kết tụ cát và vỏ vào mặt ngoài của chúng. Khác với mọi người nhầm tưởng, ngành Da gai không sở hữu bộ xương ngoài, vì lớp vỏ cầu của chúng luôn được bọc trong một lớp mô sống.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ “exoskeleton”. Online Etymology Dictionary. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2013.
  2. ^ S. Bengtson [2004]. “Early skeletal fossils” [PDF]. Trong J. H. Lipps; B. M. Waggoner [biên tập]. Neoproterozoic–Cambrian Biological Revolutions. Paleontological Society Papers. 10. tr.67–78. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2008.
Tra Exoskeleton trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary

Giải bài 3 trang 52 SBT Sinh học 7

Quảng cáo

Đề bài

Tại sao đến giáp xác thì hệ hô hấp mới phát triển? Hệ hô hấp ở tôm có cấu tạo như thế nào?

Phương pháp giải - Xem chi tiết

Giáp xác hô hấp bằng mang. Đa số các loài giáp xác sống ở biển hoặc ở nước ngọt. Một vài nhóm giáp xác sống ở trên cạn thì hầu hết chúng sống ở môi trường ẩm.

Lời giải chi tiết

- Từ chân khớp nói chung, giáp xác nói riêng trở đi, cơ thể có vỏ kitin làm nhiệm vụ bảo vệ cơ thể và như là bộ xương ngoài. Chính vì thế, nên hô hấp qua bề mặt cơ thể không thực hiộn được nữa, do đó phải có cơ quan hô hấp riêng, ở giáp xác cơ quan hô hấp được gọi là mang.

- Hệ hô hấp ở tôm có cấu tạo gồm: đốt gốc chân ngực, lá mang và bó cơ. Trên lá mang có mạch máu phân chia nhỏ tiếp nhận được ôxi vào máu rồi máu đổ vào khoang cơ thể để về tim và đi nuôi cơ thể.

Loigiaihay.com

Bài tiếp theo

  • Giải bài 4 trang 52 SBT Sinh học 7

    Giải bài 4 trang 52 SBT Sinh học 7: Mắt kép ở tôm nói riêng và ở chân khớp nói chung có cấu tạo và chức năng như thế nào?

  • Giải bài 5 trang 52 SBT Sinh học 7

    Giải bài 5 trang 52 SBT Sinh học 7: Ghi nội dung thích hợp vào bảng so sánh giáp xác và hình nhện theo các gợi ý ở cột bên phải.

  • Giải bài 6 trang 52 SBT Sinh học 7

    Giải bài 6 trang 52 SBT Sinh học 7: Cơ quan nào nằm ở phần đầu có cấu tạo khác nhau ở các sâu bọ khác nhau?

  • Giải bài 7 trang 52 SBT Sinh học 7

    Giải bài 7 trang 52 SBT Sinh học 7: Hãy ghi nội dung thích hợp vào bảng so sánh sau để phân biệt sâu bọ với hình nhện theo các từ gợi ý ở cột phải.

  • Giải bài 8 trang 52 SBT Sinh học 7

    Giải bài 8 trang 52 SBT Sinh học 7: Hãy nêu ý nghĩa thực tiễn của lớp Sâu bọ.

Quảng cáo
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Sinh lớp 7 - Xem ngay
Báo lỗi - Góp ý

I. Định nghĩa về loài tôm

Tôm là từ chỉ phần lớn các loài động vật giáp xác trong bộ giáp xác mười chân, ngoại trừ phân thứ bộ Cua bao gồm các loài cua, cáy và có thể là một phần của cận bộ Anomura bao gồm các loài tôm ở nhờ [ốc mượn hồn].Tôm sông sống phổ biến ở các sông, ngòi, ao, hổ... nước ta.

Hoạt hình mô tả cách bơi ngược mà nhiều loài tôm có thể sử dụng trong một số trường hợp thoát hiểm.

Chúng đa phần là động vật ăn tạp sống ở dưới nước, bao gồm các loài sống ở nước biển, như tôm hùm càng, và các loài sống ở vùng nước ngọt, như tôm đồng, và nước lợ, như tôm càng xanh. Di chuyển trong nước, chúng có thể bò bằng chân, bơi bằng khua chân, hoặc trong một số trường hợp bơi ngược bằng cách gập người để thoát hiểm - một kiểu bơi rất đặc trưng của nhiều loài tôm.

Hầu hết các loài tôm đều có thể là nguồn thức ăn giàu protein cho con người, trong đó có nhiều loại là thủy hải sản có giá trị thương mại rất cao.

Video liên quan

Chủ Đề