Ý nghĩa phương pháp luận của vật chất và ý thức

Phân tích định nghĩa, đặc điểm cơ bản của vật chất và từ đó rút ra ý nghĩa.

Những nội dung liên quan:

Định nghĩa vật chất

Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500 năm. Ngay từ thời cổ đại, chung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời, cũng giống những phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền với thực tiễn và nhận thức của con người.

Tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật chất, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất như sau:

Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

Theo định nghĩa của Lênin về vật chất:

– Cần phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể  của vật chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.

– Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

– Vật chất [dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó] là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự
phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:

– Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được hạn chế trong quan niệm về
vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

– Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan.

Phân tích định nghĩa vật chất

Theo định nghĩa vật chất của Lê-nin, thì trước tiên cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với “vật chất là toàn bộ thực tại khách quan”. Nó khái quát những thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng tồn tại của vật chất với khái niệm vật chất được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành, hay nói cách khác là khác dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể như: nước lửa không khí, nguyên tử, thịt bò…

Thứ hai thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất chính là thuộc tính tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại vận động và phát triển của nó không lệ thuộc vào tâm tư, nguyện vọng, ý chí và nhận thức của con người.

Thứ ba vật chất [ dưới những hình thức tồn tại cụ thể của nó] là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; những cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến các giác quan của con người.

Thứ tư trong định nghĩa này, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học . Cụ thể là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau thể hiện ở câu“ được đem lại cho con người trong cảm giác”; con người có khả năng nhận thức được thế giới thông qua câu “ được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lê-nin khẳng định bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều trình độ khác nhau con người tiến hành nhận thức thế giới.

Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất

Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của TH, thể hiện rõ lập trường DV biện chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

– Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới.

– Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. [Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức].

– Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của CNDV trước Mac [quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về nguyên tử, không thấy vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại].

– Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầm thường về vật chất [coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất]

– Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.

– Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống nhất. [vật chất trong TN, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan].

– Mở đường cổ vũ cho KH đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế giới vật chất
[Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho CNDT tấn công, cũng không thể quy vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để định nghĩa nó, vì không có khái niệm nào rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ định nghĩa nó bằng cách đối lập nó với ý thức để định nghĩa vạch rõ tính thứ nhất và tính thứ 2, cái có trước và cái có sau].

Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây.

  • Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
  • Thứ hai khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội,về lịch sử

Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn và khoa học.

Các tìm kiếm liên quan đến Phân tích định nghĩa đặc điểm cơ bản của vật chất và từ đó rút ra ý nghĩa: ý nghĩa của định nghĩa vật chất, giá trị khoa học của định nghĩa vật chất, nguồn gốc và bản chất của ý thức, định nghĩa vật chất và ý thức, vật chất theo nghĩa thông thường, định nghĩa ý thức, phương thức tồn tại của vật chất, thuộc tính cơ bản của vật chất

Vật chất, 11234

Vật chất và ý thức. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận - Mẫu 1

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức là gì? Ý nghĩa của phương pháp luận? Ngày hôm nay toploigiai.vn sẽ cùng bạn đọc đi tìm hiểu về mối quan hệ này nhé. Mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết dưới đây để có thể hiểu rõ hơn nhé.

a] Định nghĩa:

- Vật chất: Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.

Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.

Đồng thời vật chất vận động trong không gian và thời gian.

Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .

- Ý thức: Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội.

Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.

Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không thể coi ý thức [bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….] là cái có trước, cái sinh ra và quyết định sự tồn tại, phát triển của thế giới vật chất.

b] Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:

- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.

Vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên

Lao động và ngôn ngữ[tiếng nói,chữ viết ]trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức . -Tác động trở lại của ý thức Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất . Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …

c] Ý nghĩa và phương pháp luận:

Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó . Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần. Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.

Vật chất và ý thức. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận - Mẫu 2

Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng,vật chất và ý thứclà cặpphạm trùđầu tiên, cốt lõi, cơ bản, cần được nghiên cứu trước tiên.

Vật chấtlà phạm trùtriết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.[Định nghĩa của Lênin].

Còný thứclà sự phản ánh hiện thực khách quan [các đối tượng vật chất] vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.

I. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

Vật chất và ý thứccó quan hệ hai chiều, tác động qua lại lẫn nhau. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mối quan hệ này thể hiện như sau:

1. Vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức.

– Do tồn tại khách quan, vĩnh viễn, nênvật chấtlà cái có trước, mang tính thứ nhất.Ý thứcchỉ là sự phản ánh củavật chấtvào trong bộ óc con người, nêný thứccó sau, mang tính thứ hai.

Nếu không cóvật chấttrong tự nhiên [bộ óc người và thế giới khách quan],vật chấttrong xã hội [lao động, ngôn ngữ], thì không cóý thức. Nên rõ ràng,ý thứcchịu sự chi phối, sự quyết định củavật chất.Ý thứclà thuộc tính, là sản phẩm củavật chất.

Ý thứccó tính năng động, sáng tạo, nhưng sự năng động, sáng tạo này có cơ sở từvật chất, tuân theo những quy luật củavật chất.

–Vật chấtquy định nộidungvà hình thức biểu hiện củaý thức.

Nghĩa là,ý thứcmang những thông tin [nộidung] về đối tượngvật chất[núi, sông, cái bàn, con vật, hoạt động sản xuất…].

Những thông tin này có thể đúnghaysai, đầy đủhaythiếu sót, biểu hiện ra bên ngoài như thế nào… đều do đối tượngvật chấttác động ở mức độ nào lên bộ óc người.

– Trong lĩnh vực xã hội,tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Đời sốngvật chấtcủa một xã hội nhất định sẽ chi phối, định hướng đời sống tinh thần của xã hội đó.

2. Ý thức tác động trở lại vật chất.

–Vật chấtsinh ra và quyết địnhý thức,songsau khi ra đời,ý thứckhông thụ động, “ngồi một chỗ” mà sẽ tác động trở lạivật chấtthông qua hoạt động thực tiễn của con người.Ý thứcđộc lập tương đối, không bị vật chất “giam hãm”, “trói chặt”, mà có thể làm thay đổivật chất.

– Vai trò củaý thứcđối vớivật chấtthể hiện sinh động ở vai trò của con người đối với thế giới khách quan. Vìý thứclàý thứccủa con người. Qua lao động của con người,ý thứccó sức mạnh biến đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo những nhu cầu pháttriển của con người.

Mức độ tác động củaý thứclênvật chấtlớnhaynhỏ, nhiềuhayít tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, nghị lực của con người, điều kiện, môi trường, cường độ con người tác động lênvật chất.Nếu được tổ chức tốt,ý thứccó khả năng tác độngrất to lớnlênvật chất.

– Sức mạnh củaý thứckhông phải ở chỗ nó có thể tách rờivật chất.

Ý thứckhông thể thoát ly hiện thực khách quan.Ý thứcchứng tỏ sức mạnh qua việc nhận thức thế giới khách quan, từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục đích, ý chí để chỉ đạo hoạt động của con người tác động trở lại thế giớivật chất.

Nếu nhận thức đúng quy luật khách quan,ý thứcsẽ có tác động tích cực lênvật chất, làm xã hội ngày càng pháttriển. Ngược lại, nếu nhận thức sai,ý thứcsẽ kìm hãm sự lịch sử.

II. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

Mối quan hệ biện chứng giữavật chất và ý thứcđòi hỏi con người phải quántriệtnguyên tắc khách quantrong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

1. Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động.

– Trong quá trình nhận thức, học tập, nghiên cứu, con người phải bắt đầu từ việc quan sát, xem xét, phân tích đối tượngvật chất. Qua việc tác động vào chúng, ta sẽ bắt đối tượngvật chấtphải bộc những thuộc tính, quy luật của nó. Khi đó, ta sẽ thu nhận đượctrithức.

Bằng việc lặp đi lặp lại nhiều lần chu trình trên, con người sẽ có kiến thức ngày càng phong phú về thế giới.

– Đểsản xuất vật chất, cải tạo thế giới khách đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực khách quan để đánh giá tình hình, từ đó xác định phương hướng, biện pháp, lộ trình kế hoạch.

Muốn thành công, con người phải tuân theo những quy luật khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Phải luôn đặt mình, cơ quan, công ty trong những hoàn cảnh, điều kiện thực tế, nhất là về vật chất, kinh tế.

– Cần luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong cuộc sống. Đó là việc tránh xa thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, ước muốn, niềm tin của mình để hành động mà không nghiên cứu, đánh giá đầy đủ tình hình các đối tượng vật chất.

2. Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.

– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải luôn chủ động, phát huy hết trí thôngminh, khả năng suy nghĩ của mình. Phải luôn tìm tòi, sáng tạo ra cái mới trên cơ sở tích lũy, kế thừa những cái cũ phù hợp. Có như vậy, con người mới ngày càng tài năng, xã hội ngày pháttriển.

– Con người phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao thể lực, trí lực để nâng cao năng lực nhận thức và lao động của mình. Phải kiên trì, nỗ lực vượt qua khó khăn, không bỏ cuộc giữa chừng.

– Tuyệt đối không được thụ động, trông chờ, ỷ lại trong mọi tình huống. Điều ngày cũng đồng nghĩa với việc tránh sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.

– Không được tuyệt đối hóa vai trò của các điều kiệnvật chấttrong nhận thức và hoạt động thực tiễn.Vật chấtcó vai trò quyết định, chi phối nhưng không có nghĩa là những thiếu hụt đối tượngvật chấtsẽ khiến con người thất bại trong việc tìm ra giải pháp khả thi.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề