Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết. [tháng 2/2022] |
Richard Marx |
Richard Noel Marx [1] |
16 tháng 9, 1963 [59 tuổi][1] |
Chicago, IL, Hoa Kỳ[1] |
nhạc rock, Pop, |
ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất |
piano, ghi-ta |
1982 - hiện nay |
Capitol Records, EMI, Manhattan Records, Signal 21 Records, Zanzibar Records |
Dick Marx, Matt Scannell, Luther Vandross, Keith Urban |
richardmarx.com |
Richard Noel Marx [sinh ngày 16 tháng 9 năm 1963 tại Chicago, bang Illinois, Hoa Kỳ] là một ca sĩ thuộc dòng nhạc pop kiêm nhạc sĩ, nhà sản xuất người Hoa Kỳ. Ông có nhiều bài hát được xếp hạng cao trong hai thập niên 1980 và 1990, như các bản Endless Summer Nights, Now and Forever, Hazard. Dù ông nổi tiếng ở dòng nhạc trữ tình nhưng một số bài lại mang phong cách rock cổ điển như Don't Mean Nothing, Should've Known Better, Satisfied, Too Late To Say Goodbye. Đặc biệt, bản tình ca Right Here Waiting của ông rất phổ biến trên toàn thế giới, còn tại Việt Nam nó là một trong những bài hát tiếng Anh được yêu thích nhất kể từ thập niên 1990. Richard Marx được ghi nhận là nghệ sĩ đầu tiên có bảy đĩa đơn lọt vào tốp năm của hệ thống xếp hạng ở Hoa Kỳ.[2]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c “Biography & Career Highlights”. Richard Marx Online. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Yamaha Announces Incredible Lineup for 2007 Dealer Concert”. Yamaha. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2007.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- RichardMarx.com [Official Site]
- RichardMarxOnline.com [Official Interactive Fan Site] Lưu trữ 2016-03-05 tại Wayback Machine
- Official Richard Marx page tại MySpace
- Richard Marx page Lưu trữ 2012-03-12 tại Wayback Machine tại VH1
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về bộ đôi nghệ sĩ nhạc pop người Mỹ. Đối với album phòng thu thứ ba của họ, xem Carpenters [album]. Đối với các cách sử dụng khác, xem Carpenters [định hướng].
Karen và Richard Carpenter vào năm 1974 |
Downey, California, Hoa Kỳ |
|
1969–1983 |
A&M |
The Richard Carpenter Trio |
carpentersofficial.com richardandkarencarpenter.com |
|
The Carpenters là bộ đôi ca sĩ và nhạc công người Mỹ, gồm hai anh em ruột Karen [1950–1983] và Richard Carpenter [sinh 1946].[a] Hai nghệ sĩ đã sản xuất những sản phẩm âm nhạc có phong cách nhẹ nhàng, kết hợp giữa giọng nữ trầm của Karen với những kĩ năng cải biên và sáng tác của Richard. Trong sự nghiệp kéo dài 14 năm của họ, The Carpenters đã thu âm tổng cộng 10 album cùng nhiều đĩa đơn và một số chương trình truyền hình đặc biệt.
Hai anh em sinh ra tại New Haven, Connecticut và chuyển đến Downey, California vào năm 1963. Lúc còn nhỏ, Richard đi học chơi piano rồi trở thành sinh viên của Đại học Tiểu bang California, Long Beach, trong khi Karen học chơi trống trong khoảng thời gian đó. Hai người lần đầu biểu diễn cùng nhau vào năm 1965 và thành lập bộ tam nghệ sĩ nhạc jazz Richard Carpenter Trio, và sau đó là nhóm nhạc theo phong cách middle-of-the-road Spectrum. Với việc ký kết hợp đồng với A&M Records vào năm 1969 dưới nghệ danh Carpenters, bộ đôi đã đạt được thành công lớn ngay trong năm sau với các đĩa đơn hit "[They Long to Be] Close to You" và "We've Only Just Begun". Sau đó, những giai điệu nhạc pop thương hiệu của họ đã sản sinh ra một loạt các bản thu âm hit, phá vỡ nhiều kỷ lục trên các bảng xếp hạng American Top 40 và Adult Contemporary. Bộ đôi trở thành nghệ sĩ có doanh số hàng đầu ở các dòng nhạc soft rock, easy listening và adult contemporary. The Carpenters có tổng cộng ba đĩa đơn quán quân và năm đĩa đơn á quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, 15 ca khúc hit trên bảng xếp hạng Adult Contemporary, cùng 12 đĩa đơn nằm trong top 10. Bộ đôi đã bán ra hơn 90 triệu bản thu âm trên toàn cầu và là một trong những nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất mọi thời đại. Trong thập niên 1970, bộ đôi liên tục thực hiện các chuyến lưu diễn và điều này khiến hai nghệ sĩ phải chịu thêm nhiều căng thẳng. Vào năm 1979, Richard phải dừng hoạt động trong một năm sau khi nghiện chất an thần Quaalude. Trong khi đó, sức khỏe của Karen bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi hội chứng chán ăn tâm thần.
Sự nghiệp của bộ đôi chấm dứt vào năm 1983, khi Karen qua đời sau một cơn suy tim gây ra bởi những biến chứng của bệnh chán ăn. Tin tức về tình cảnh của Karen xuất hiện rộng khắp trên báo chí và các phương tiện truyền thông, khiến công chúng bắt đầu nhận thức rõ ràng hơn về những hội chứng rối loạn ăn uống. Mặc dù The Carpenters từng bị chỉ trích vì hình ảnh sạch sẽ và lành mạnh đến mức bảo thủ trong thập niên 1970, âm nhạc của họ sau này đã được nhìn nhận, đánh giá lại, nhận được những lời tán dương từ các nhà phê bình và tiếp tục gặt hái những thành công thương mại.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Giai đoạn tiền Carpenters[sửa | sửa mã nguồn]
Thơ ấu[sửa | sửa mã nguồn]
Hai anh em nhà Carpenters đều sinh tại bệnh viện Grace–New Haven Hospital [nay có tên là Yale–New Haven Hospital] ở New Haven, Connecticut. Họ là con của Harold Bertram [8 tháng 11 năm 1908 – 15 tháng 10 năm 1988] và Agnes Reuwer [tên khai sinh là Tatum, 5 tháng 3 năm 1915 – 10 tháng 11 năm 1996]. Harold sinh ra tại Ngô Châu, Trung Quốc, sau đó chuyển đến Anh Quốc vào năm 1917 và đến Hoa Kỳ vào năm 1921. Trong khi đó, Agnes sinh ra và lớn lên ở Baltimore, Maryland. Hai người kết hôn vào ngày 9 tháng 4 năm 1935 và hạ sinh đứa con đầu lòng Richard Lynn vào ngày 15 tháng 10 năm 1946. Họ sinh đứa con thứ hai, Karen Anne, vào ngày 2 tháng 3 năm 1950. Richard là một đứa trẻ trầm tính và dành phần lớn thời gian ở nhà để nghe nhạc của Rachmaninoff, Tchaikovsky, Red Nichols và Spike Jones, cũng như chơi piano.[4] Karen lại là một đứa trẻ thân thiện và dễ gần. Cô thích chơi thể thao và thường xuyên chơi bóng mềm với những đứa trẻ hàng xóm. Tuy nhiên, Karen vẫn dành nhiều thời gian cho việc lắng nghe âm nhạc. Cô thích nhảy múa và bắt đầu tham gia các lớp học múa ba lê và nhảy clacket từ năm bốn tuổi. Karen và Richard rất thân thiết với nhau và đều thích thú với âm nhạc. Cụ thể là, hai anh em là những người hâm mộ của Les Paul and Mary Ford – một bộ đôi nghệ sĩ sử dụng kỹ thuật liên tục ghi đè giọng hát và các nhạc cụ trong những sản phẩm âm nhạc của họ.[5] Richard bắt đầu đi học piano vào năm tám tuổi, nhưng nhanh chóng tỏ ra không hài lòng với định hướng mang tính chính quy của các buổi học và nghỉ học sau một năm. Năm 11 tuổi, ông bắt đầu tự học chơi piano bằng cách lắng nghe những giai điệu và trở lại học tập với một giáo viên khác. Lần này, ông trở nên thích thú hơn với việc chơi piano và thường xuyên luyện tập tại nhà. Đến năm 14 tuổi, ông tỏ ra quan tâm đến việc biểu diễn chuyên nghiệp và bắt đầu đi học tại Trường Âm nhạc Yale.[6]
Tháng 6 năm 1963, gia đình Carpenter chuyển đến vùng ngoại ô Downey của Los Angeles với hy vọng sẽ tìm được những cơ hội âm nhạc tốt hơn cho Richard.[7][8][9] Ông được yêu cầu giữ vai trò người tổ chức cho các đám cưới và khóa lễ tại nhà thờ Giám lý địa phương. Thay vì chơi các bài thánh ca theo truyền thống, ông thỉnh thoảng lại cải biên một số ca khúc đương đại của Beatles theo phong cách của "nhà thờ".[10] Cuối năm 1964, Richard ghi danh vào trường Đại học Tiểu bang California ở Long Beach. Ở đây, ông đã gặp những người mà sau này đã cùng ông sáng tác nhạc, bao gồm John Bettis, Wesley Jacobs và người chỉ đạo dàn hợp xướng Frank Pooler. Jacobs là một người bạn của Richard và sau này đã đảm nhận chơi bass và tuba cho bộ tam Richard Carpenter Trio, còn Pooler đã cộng tác với Richard trong ca khúc tiêu chuẩn cho dịp Giáng Sinh "Merry Christmas Darling" vào năm 1966.[11]
Cũng trong năm 1964, Karen nhập học tại Trường Trung học phổ thông Downey. Trong thời gian học tập tại đây, cô phát hiện ra mình có tài chơi trống.[12] Lúc đầu, cô thử chơi glockenspiel, nhưng về sau, cô được truyền cảm hứng từ người bạn chơi trống từ năm ba tuổi Frankie Chavez. Cô trở nên nhiệt tình với việc chơi trống và bắt đầu học chơi những tác phẩm phức tạp hơn như "Take Five" của Dave Brubeck.[13] Chavez thuyết phục cha mẹ của Karen mua cho cô một bộ trống Ludwig vào cuối năm 1964. Kể từ đó, cô bắt đầu tham gia các buổi học với những người chơi nhạc jazz ở địa phương, trong đó có cả những buổi học về cách đọc các bản nhạc cổ điển. Cô nhanh chóng thay bộ trống cho người nhập môn bằng một bộ trống Ludwig lớn tương tự bộ của tay trống Joe Morello của Brubeck. Richard và Karen lần đầu biểu diễn cùng nhau trước công chúng vào năm 1965, trong vai trò là thành viên của ban nhạc trong khoang của dàn giao hưởng phục vụ vở nhạc kịch Guys and Dolls tổ chức ở địa phương.[14][15]
Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
The Carpenters đã phát hành tổng cộng 10 album trong sự nghiệp của họ. Trong số đó, có năm album có ít nhất hai đĩa đơn lọt vào top 20 của bảng xếp hạng Billboard Hot 100 [Close to You, Carpenters, A Song for You, Now & Then và Horizon]. Bộ đôi có 10 đĩa đơn được chứng nhận Vàng từ RIAA và 22 đĩa đơn đạt đến vị trí trong top 10 của bảng xếp hạng Adult Contemporary.
Album phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]
- Offering/Ticket to Ride [1969]
- Close to You [1970]
- Carpenters [1971]
- A Song for You [1972]
- Now & Then [1973]
- Horizon [1975]
- A Kind of Hush [1976]
- Passage [1977]
- Christmas Portrait [1978]
- Made in America [1981]
Các sản phẩm sau khi giải nghệ[sửa | sửa mã nguồn]
- Voice of the Heart [1983]
- An Old-Fashioned Christmas [1984]
- Lovelines [1989]
- As Time Goes By [2004]
- Carpenters With The Royal Philharmonic Orchestra [2018]
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Tuy rằng nhóm thường được nhắc đến là The Carpenters, tên chính thức của bộ đôi nghệ sĩ này trong các sản phẩm thu âm được cấp phép và trong các ấn phẩm báo chí chỉ đơn giản là "Carpenters".[3]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Talevski 2006, tr. 70.
- ^ Simpson 2011, tr. 61.
- ^ Schmidt 2010, tr. 49.
- ^ Schmidt 2010, tr. 14.
- ^ Schmidt 2010, tr. 16.
- ^ Schmidt 2010, tr. 18–19.
- ^ Coleman 1994, tr. 47.
- ^ Samberg, Joel [ngày 4 tháng 2 năm 2013]. “Remembering Karen Carpenter, 30 Years Later”. NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2015.
- ^ Lott 2008, tr. 226.
- ^ Schmidt 2010, tr. 22–23.
- ^ Coleman 1994, tr. 53.
- ^ Coleman 1994, tr. 51.
- ^ Schmidt 2010, tr. 24–25.
- ^ Coleman 1994, tr. 52.
- ^ Schmidt 2010, tr. 27.
Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Coleman, Ray [1994]. The Carpenters: The Untold Story. Harpercollins. ISBN 978-0-06-018345-5.
- Costin, Carolyn [2007]. The Eating Disorder Sourcebook. McGraw-Hill Professional. ISBN 978-0-0718-1999-2.
- Levitin, Daniel [1995]. “Arranging Master Class: Richard Carpenter”. Electronic Musician. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
- Lott, Eric [2008]. “Perfect is Dead: Karen Carpenter, Theodor Adorno, and the Radio; or, If Hooks Could Kill”. 50 [2]. Criticism – qua Project MUSE.
- Petrucelli, Alan W. [2009]. Morbid Curiosity: The Disturbing Demises of the Famous and Infamous. Penguin. ISBN 978-1-1011-4049-9.
- Schmidt, Randy [2010]. Little Girl Blue: The Life Of Karen Carpenter. Chicago Review Press. ISBN 978-1-556-52976-4.
- Schmidt, Randy biên tập [2012] [2002]. Yesterday Once More: The Carpenters Reader. Chicago Review Press. tr. 47–49. ISBN 978-1-613-74417-8.Quản lý CS1: ref trùng mặc định [liên kết]
- Simpson, Kim [2011]. Early 70s Radio: The American Format Revolution. Continuum International Publishing Group. ISBN 978-1-44112-9-680.
- Stanton, Scott [2003]. The Tombstone Tourist: Musicians. Simon and Schuster. ISBN 978-0-743-46330-0.
- Talevski, Nick [2006]. Rock Obituaries – Knocking On Heaven's Door. Omnibus Press. ISBN 978-1-8460-9091-2.
- Terrace, Vincent [2013]. Television Specials: 5,336 Entertainment Programs, 1936–2012 [ấn bản 2]. McFarland. ISBN 978-1-476-61240-9.
- Tobler, John [1998]. The Complete Guide to the Music of the Carpenters. Omnibus Press. ISBN 978-0-711-96312-2.
- Zerbe, Kathryn J. [1995]. The Body Betrayed: A Deeper Understanding of Women, Eating Disorders, and Treatment. Gürze Books, LLC. ISBN 0-936077-23-9.
Lưu ý: Danh sách bài hát hàng năm đi theo 'ngày phát hành' sớm nhất [đơn, album hoặc quốc gia phát hành đầu tiên]. Không nhất thiết là năm một bài hát đạt đến đỉnh điểm trong bảng xếp hạng của Hoa Kỳ.
Not necessarily the year a song peaked in the U.S. charts.
No. | Bài hát | Họa sĩ | |
1 | Louie Louie | Kingsmen | |
2 | Cô ấy yêu bạn | Beatles | |
3 | Tôi muốn nắm tay bạn | Beatles | |
4 | Tôi muốn nắm tay bạn | Hãy thành người yêu của anh | |
5 | Ronettes | Beatles | |
6 | Tôi muốn nắm tay bạn | Hãy thành người yêu của anh | |
7 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
8 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
9 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
10 | Tất cả đều ổn | Beatles | |
11 | Tôi muốn nắm tay bạn | Beatles | |
12 | Tôi muốn nắm tay bạn | Hãy thành người yêu của anh | |
13 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
14 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
15 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
16 | Tất cả đều ổn | Ấn tượng | |
17 | Thổi vào gió | Ấn tượng | |
18 | Thổi vào gió | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
19 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Hãy thành người yêu của anh | |
20 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
21 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
22 | Vui mừng tất cả | Hãy thành người yêu của anh | |
23 | Ronettes | Beatles | |
24 | Tôi muốn nắm tay bạn | Hãy thành người yêu của anh | |
25 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
26 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
27 | Vui mừng tất cả | Beatles | |
28 | Tôi muốn nắm tay bạn | Hãy thành người yêu của anh | |
29 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
30 | Surfin 'USA | Hãy thành người yêu của anh | |
31 | Ronettes | Dave Clark năm | |
32 | Tất cả đều ổn | Ấn tượng | |
33 | Thổi vào gió | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
34 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
35 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Hãy thành người yêu của anh | |
36 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
37 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
38 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
39 | Tất cả đều ổn | Ấn tượng | |
40 | Thổi vào gió | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
41 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
42 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Martha & Vandellas | |
43 | Trên Broadway | Trôi dạt | |
44 | Surf City | Jan & Trưởng khoa | |
45 | Da Doo Ron Ron | Tinh thể | |
46 | Anh ấy rất ổn | Voan | |
47 | Một ngày đẹp trời | Bạn trai của tôi trở lại | |
48 | Thiên thần | Hãy thành người yêu của anh | |
49 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
50 | Surfin 'USA | Hãy thành người yêu của anh | |
51 | Ronettes | Hãy thành người yêu của anh | |
52 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
53 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
54 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
55 | Tất cả đều ổn | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
56 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
57 | Vui mừng tất cả | Hãy thành người yêu của anh | |
58 | Ronettes | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
59 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
60 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
61 | Tất cả đều ổn | Ấn tượng | |
62 | Thổi vào gió | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
63 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
64 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Martha & Vandellas | |
65 | Trên Broadway | Beatles | |
66 | Trôi dạt | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
67 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
68 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Martha & Vandellas | |
69 | Trên Broadway | Trôi dạt | |
70 | Surf City | Beatles | |
71 | Jan & Trưởng khoa | Da Doo Ron Ron | |
72 | Tinh thể | Beatles | |
73 | Anh ấy rất ổn | BEACH BOYS | |
74 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
75 | Tất cả đều ổn | Ấn tượng | |
76 | Thổi vào gió | Martha & Vandellas | |
77 | Trên Broadway | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
78 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
79 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Martha & Vandellas | |
80 | Trên Broadway | Trôi dạt | |
81 | Surf City | Jan & Trưởng khoa | |
82 | Da Doo Ron Ron | Jan & Trưởng khoa | |
83 | Da Doo Ron Ron | Tinh thể | |
84 | Anh ấy rất ổn | Voan | |
85 | Một ngày đẹp trời | Martha & Vandellas | |
86 | Trên Broadway | Trôi dạt | |
87 | Surf City | Jan & Trưởng khoa | |
88 | Da Doo Ron Ron | Tinh thể | |
89 | Anh ấy rất ổn | Voan | |
90 | Một ngày đẹp trời | Bạn trai của tôi trở lại | |
91 | Thiên thần | Cô gái lướt sóng | |
92 | Xin chào người lạ | Barbara Lewis | |
93 | Một đêm thứ bảy khác | Sam Cooke | |
94 | Trong phòng tôi | Từ tôi đến với bạn | |
95 | Đầu ngón tay - Pt.2 | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
96 | Surfin 'USA | BEACH BOYS | |
97 | Vui mừng tất cả | Dave Clark năm | |
98 | Tất cả đều ổn | Ấn tượng | |
99 | Thổi vào gió | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
100 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Tôi thấy cô ấy đang đứng đó | |
Surfin 'USA | |||
101 | BEACH BOYS | Vui mừng tất cả | |
102 | Dave Clark năm | Tất cả đều ổn | |
103 | Ấn tượng | Beatles | |
104 | Thổi vào gió | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
105 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
106 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Bob Dylan / Peter Paul & Mary | |
107 | Làm ơn làm ơn cho tôi | Xoắn và hét | |
108 | [Tình yêu giống như a] Sóng nhiệt | Martha & Vandellas | |
109 | Trên Broadway | Trôi dạt | |
110 | Surf City | Jan & Trưởng khoa | |
111 | Da Doo Ron Ron | Beatles | |
112 | Tinh thể | Trôi dạt | |
113 | Surf City | Hãy thành người yêu của anh | |
114 | Jan & Trưởng khoa | Da Doo Ron Ron | |
115 | Tinh thể | Hãy thành người yêu của anh | |
116 | Anh ấy rất ổn | Voan | |
117 | Một ngày đẹp trời | Bạn trai của tôi trở lại | |
118 | Thiên thần | Cô gái lướt sóng | |
119 | Xin chào người lạ | Barbara Lewis | |
120 | Một đêm thứ bảy khác | Sam Cooke | |
Trong phòng tôi | |||
Từ tôi đến với bạn | |||
Đầu ngón tay - Pt.2 | Little Stevie Wonder | Tôi có thể lấy một nhân chứng | |
Marvin Gaye | |||
* | Chỉ ở Mỹ | Jay và người Mỹ | |
Sự lựa chọn của Adam: | |||
* | Anh ấy là một người bạn của tôi | Dave Van Ronk | |
Sự lựa chọn của Brett: | |||
* | Rời khỏi đây | Eddie Hà Lan |