Biện pháp so sánh trong vội vàng xuân diêhu năm 2024

Tác phẩm  Trích từ tâ p “Thơ thơ” (1938), tâ ̣p thơ đầu tay của Xuân Diệ u. Đó là tiếng̣ thơ dạt dào của một tâm hồn trẻ tuổi lúc nào cũng dào dạt thèm yêu, khát sống, say đắm cuộc đời, quyến luyến cảnh sắc trần gian.  Tập thơ bộc lộ quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu; hình thức hấp dẫn với nhiều cách tân táo bạo, mới lạ, nhuần nhị. Ýnghĩa nhan đê  Vô ̣i vàng là thi phẩm kết tinh được nhiều bình diê n phẩm chất thơ Xuâṇ Diê ̣u. Nhan đề bài thơ vừa chứa đựng mô t tâm thế sống, triết lí sống.̣  Tâm thế được giãi bày thành hình tượng cái tôi, thành giọng thơ, hơi thơ và thành mạch cảm xúc và hình ảnh thiên nhiên, đời sống hấp dẫn.  Triết lí được triển khai thành mạch lí luâ n với mô ̣t hình thức logic nô ̣i tạị khá chă ̣t chẽ. Tìm hiểu văn bản 4 câu đầu: Khát vọng mãnh liệt và lãng mạn của thi nhân “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buô c gió lạị Cho hương đừng bay đi”

  • Thể thơ ngũ ngôn ngắn gọn, xúc tích và bao quát cảm hứng toàn bài.
  • Đoạn thơ có thể coi là ước vọng của cả đời Xuân Diệu, cho dù nó có phần hoang đường, kì lạ: “Tôi muốn tắt nắng đi”, “Tôi muốn buộc gió lại”.
  • Hai chữ “tôi muốn” như một tuyên ngôn của cái tôi tự tin và đầy tự tôn trước cuộc đời này. Với cách đưa đại từ “tôi” lên đầu tiên kết hợp với từ “muốn”, Xuân Diệu gần như đã lật nhào mọi quy phạm khắc nghiệt của nền thơ ca trung đại trước đó.
  • Thơ ca trung đại chỉ bàn tới việc nước, việc đại sự liên quan tới tồn vong dân tộc. Có chăng chút phong cách cá nhân cũng chỉ dám nép mình sau chữ “ta” chung. Song, các nhà thơ mới và ngay cả Xuân Diệu, tính phi ngã ấy đã bị phá vỡ hoàn toàn.
  • Thi sĩ như đang vươn mình đoạt quyền năng của tạo hóa, thay đổi mọi quy luật vũ trụ.
  • Nhưng khát vọng hoang đường ấy lại hoàn toàn có căn cứ: “Cho màu đừng nhạt mất”, “Cho hương đừng bay đi”.
  • Hóa ra, lý do rất đơn giản: Xuân Diệu – nhà thơ của mùa xuân, tình yêu, tuổi trẻ và thời gian, một “ông hoàng thơ tình” - đang lo lắng.

“Cho màu đừng nhạt mất Cho hương đừng bay đi” Hai chữ “đừng” dường như thể hiê n nguyện vọng thiết tha của chàng̣ thi sĩ : Muốn giữ trọn vẹn hơn vẻ đẹp của cuộc đời, hưởng thụ trọn vẹn hơn thanh sắc vị cuộc sống này khi còn có thể.

  • Nhà thơ sợ:  Màu nắng sẽ mất tươi  Hoa nở sẽ sớm tàn, hương sắc sẽ sớm phai. 🡪 Xuân Diệu càng yêu tha thiết thì càng lo sợ sẽ mất đi. 🡪 Nắng và gió thuộc về trời cao, nó không bị hạn chế hay ngăn cấm băng bất kì một thứ quyền lực nào. Vậy mà thi sĩ muốn “tắt”, “buộc”. Hai động từ mạnh càng như tăng thêm vẻ hăm hở, tự tin của tác giả.  Nô ̣i dung: Thể hiê n khát vọng mãnh liệ t của mộ t trái tim yêu đời, haṃ sống. Nhưng đây không phải là những ước muốn ngông cuồng mà như mô ̣t lời tuyên ngôn lí tưởng sống.  Nghê ̣ thuâ ̣t: 4 câu thơ 5 chữ, lặp cú pháp, các động từ mạnh: “tắt, buộc”... “Màu” sắc, “hương” thơm là những hình ảnh thuộc về vẻ đẹp, biểu hiện của vẻ đẹp vạn vật trong thiên nhiên. “Màu” nhạt “hương” bay đó là sự phôi pha của cái đẹp mà tác nhân chính đó là do “nắng” và “gió”. “Nắng” và “gió” là những hiện tượng thiên nhiên, là quy luật của thiên nhiên, là biểu tượng của thời gian tác động lên cái đẹp, là kẻ thù của sắc đẹp.

9 câu tiếp: Bức tranh thiên nhiên đầy á nh sáng Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.  Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏa ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa Xuân.

trên cuộc đời này. Thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ.

*Liên hê ̣ “Cảnh ngày xuân” trong Truyện Kiêu:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

 Suy tư của Xuân Diệu vê thời gian chảy trôi của mình:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

 Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.  Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn.  Nửa bên này dấu chấm là mùa Xuân, nửa bên kia là giới hạn cuộc đời nên thi sĩ vội vàng tận hưởng, hoài xuân, tiếc xuân ngày giữa mùa xuân.  Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao.  Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến thi nhân sống vội vàng tận hưởng.  Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian  Nhà thơ yêu đời vì cuộc sống quá đẹp đẽ, niềm yêu đời khiến nhà thơ vui sướng nhưng cũng chính vì niềm yêu đời đó mà ông vội vàng nỗi hoài xuân.

Ở các nhà thơ cùng thời, mọi người muốn thoát tục lên tiên, quên đi thực tại xã hội đau thương của kiếp đời nhân dân nô lê : Tản Đà muốṇ “Hầu trời”, “muốn làm thằng cuội”, Thế Lữ có tiếng sáo thênh thang thì Xuân Diệu lại thiết tha gắn bó với cõi đời trần thế.

16 câu tiếp theo: Quan niệm và cảm nhận mới, nỗi băn khoăn trước thời gian cuộc đời

9 câu đầu: Quan niệm vê thời gian và tuổi trẻ

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian; Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

 Câu thơ 8 chữ: Nhịp thơ tuôn trào như dòng chảy xiết của thời gian.  Giọng điệu: Buồn, tiếc nuối và có phần hờn trách.  Quan niệm vê thời gian, mùa xuân: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”  Điệp từ : Xuân lặp lại tới 5 lần, hình ảnh “xuân” mang ý nghĩa biểu tượng:

  • Xuân không chỉ là mùa xuân của đất trời
  • Xuân không chỉ là thời gian
  • Xuân còn mang ý nghĩa ẩ n dụ tuổi trẻ  Điệp cấu trúc: “A nghĩa là B”, điệp từ ”Nghĩa là” lặp lại đến 3 lần: → Làm cho mạch thơ chặt chẽ và giải thích, khẳng định thẳng thắn, sâu sắc những cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân, về thời gian.  Nhịp thơ: 3/2/3 nhịp nhàng, đều đặn, âm ỉ tuôn trào như dòng chảy của thời gian và cho thấy sự tinh tế trong cảm nhận của tác giả về bước đi của thời gian. → Nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian tuyến tính và tuổi trẻ chỉ sống một lần. Từ đó, giãi bày quan niệm “Tôi không chờ

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”

 Giọng u hoài, ưu tư  “Tôi và đất trời”: Làm bật lên sự nhỏ bé hữu hạn trước sự to lớn của tự nhiên.  “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”: Cách nói phủ định, thẳng thắn, quyết liê ̣t. Phản đối quan niê ̣m xưa, khẳng định triết lí và thời gian tuyến tính.  “Rô ̣ng” >< “châ ̣t”: tác giả tiếp tục sử dụng cụm từ đối lập.  Cái nghịch lý của đời người với thời gian và vũ trụ. Khi xuân hết thì tuổi trẻ cũng qua→ Bi kịch của đời người, thời gian trôi thì tuổi trẻ không trở lại.  “Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu, cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng”, còn thứ vốn như vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. “Lượng trời chật” mà “lòng tôi rộng” còn thể hiện ý muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Đồng thời, còn thể hiện sự tiếc nuối thời gian, cuộc đời. → Quy luật cuộc sống vô cùng nghiệt ngã  ”Không cho dài thời trẻ của nhân gian”: Đây dường như là một câu trách móc của tác giả. Tại sao thời gian qua đi mà tuổi xuân con người không thể giữ lại? Vì vậy, nói đến tính hạn chế của kiếp người, tác giả cho thấy một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ.  “Nói làm chi”: là một cụm từ phủ định, tác giả phủ định quan niệm “thời gian tuần hoàn” và đưa ra lí do “Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” để giải bày cho thời gian hữu hạn, gấp gáp trôi.  Quan niệm về tuổi trẻ của người xưa là tuần hoàn (đi rồi trở lại). Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian cũng như tuổi trẻ. Người xưa luôn yên tâm, bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niê m thời giaṇ là tuần hoàn, tuổi trẻ cũng như thế. → Thước đo thời gian là sinh mệnh của vũ trụ  Quan niệm về tuổi trẻ của Xuân Diệu: “Tuổi trẻ” theo ông là cách để đánh dấu mốc thời gian: Con người chỉ có một lần tuổi trẻ và khoảng thời gian ấy chỉ có một lần duy nhất trong sự vô tận của thời gian. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn “động”, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Với Xuân Diê ̣u, “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm

lại” nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn, vũ trụ trời đất thì vô hạn, vĩnh viễn mà đời người thì hữu hạn. Thế là Xuân Diê ̣u tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. → Thước đo thời gian chính là sinh mê ̣nh của con người (cá thể). “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

 Tiếng thở dài của thi nhân  Cặp từ trái nghĩa “còn”><”chẳng còn” → Làm bật lên sự hữu hạn của kiếp người và vô hạn của trời đất. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiến thi sĩ “vô ̣i vàng” mô ̣t nửa khi xuân mới bắt đầu.  Giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tâ n của thời gian, tuổị trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua cửa sổ, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diê ̣u đã đem đến mô ̣ t nỗi ngâ ̣m ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Viê ̣t.  Đó chính là: “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”: Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.  “Với quan niê ̣m mô ̣t đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hầu” (Thế Lữ), Xuân Diệu thật sự đã cảm thấu được cái ngắn ngủi của thời gian, cảm nhận thấm thía sự thay đổi cả trong thời gian và không gian.

*Nội dung:  Là lời giục giã thế hệ trẻ sống vội vàng, sống cuống quýt để hưởng thụ hết những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Bởi tuổi trẻ của mỗi người chỉ đến một lần duy nhất và thời gian thì không đứng lên để đợi một ai cả.  Thế hiện lòng ham sống mãnh liệt của Xuân Diệu cùng với một quan niệm sống mới mẻ về thời gian tuyến tính, tuổi trẻ chỉ một lần duy nhất và hạnh phúc. Những quan niệm tỉnh táo, xót xa ẩ n chứa một tình yêu say đắm với cuộc đời.  Nhắc nhở con người ta phải sống hết mình, sống thật ý nghĩa để tuổi trẻ qua mà không hối tiếc. *Nghệ thuật:  Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi cảm, gợi hình...

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt

Là người đã tiếp thu ở mức nhuẫn nhuyễn phép tương giao (Correspondence) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng nhiêu giác quan  Khứu giác: mùi tháng năm: thời gian của Xuân Diệu được làm từ mùi hương chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư, hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha!  Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành vị giác- nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ  Chữ vị liền đó lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển sang vị giác. Và đây là thứ hoàn toàn phi vật chất: “ vị chia phôi” → Thì ra chữ rớm và chữ vị đều từ một hình ảnh ẩ n hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó → Giọt lệ thường long lanh trên khóe mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân biểu tượng của chia phôi

Không gian thiên nhiên như có linh hồn rên xiết Vì sao thời gian lại mang hương vị hình thể chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thật hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản chuyển đổi giác quan của phép tương giao? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chổ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiễn nhiên mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thực sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và cả chính thời gian. → Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên, bất tận: “ than thầm tiễn biệt “. → Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi!

Không gian ấy còn được biểu hiện qua biện pháp nhân hóa ở 4 câu thơ tiếp theo

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nổi phá bay đi

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

 Nhân hóa: con gió xinh, chim rộn ràng  Điệp cấu trúc :”phải chăng” câu hỏi tu từ  Cơn gió lo âu: Một ngọn gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang vương vít với những cành cây chẳng muốn rời xa. Gió và cây đang thì thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm phải chia tay  Chim chóc :Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi lo sợ độ phai tàn của cuộc thi sắp đến. Có thể nói ý niệm sâu sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thủy vô chung của nó. → Tác giả đã nghe được lời than vãn của đất trời, cảm nhận được sự lo sợ của vạn vật. → Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp như khẳng định thêm nỗi buồn của cảnh vật thiên nhiên khi xuân tàn và đó cũng là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu  Ýniệm vê thời gian của Xuân Diệu: Một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là Thi sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thật chất không có 3 thì rạch ròi với quá khứ-hiện tại-tương lai, mà chỉ có 2 thì luôn tranh chấp chuyển hóa thôi, đó là thời tươi và thời phai. Nó không phải 2 mùa. Không phải Xuân Diệu lược quy 4 mùa vào 2 mùa, mà là 2 thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên.  Thời tươi: Vạn vận thắm sắc - giai đoạn trẻ trung, tươi đẹp, rực rỡ tràn đầy sức sống  Thời phai: Vạn vật phôi pha, phai lạt - giai đoạn tàn phai héo úa già nua, không còn sức sống → Vạn vật trong trần thế này đều trải qua 2 thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác nhau như năm tháng mùa vụ phút giây... dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây nó hiện diê ̣n trong sự đối lập của thời phai và thời tươi.  Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian là tranh thủ sống:

Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

  • Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!  Bức tranh thiên nhiên được hiện lên một lần nữa

 “Mau đi thôi!”:“Mau” : sự gấp gáp, vội vàng  Giọng điệu, thái độ thúc giục tất cả chúng ta.  Câu cảm thán thể hiện sự tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống, tận hưởng thời gian và cuộc sống “Mùa chưa ngả chiều hôm”  Mùa xuân vẫn còn đó, chưa tàn, người đang yêu tha thiết thì tại sao phải nghĩ nhiều đến chia lìa để hao hụt niềm vui hiện tại. -> đừng nghĩ đến việc chia xa, hãy trân trọng tình yêu đang có.  Ngay khi còn tốt đẹp vẹn nguồn, hãy sống một cách vội vàng, tận hưởng cho hết. → Xuân Diệu không than để rồi tuyệt vọng mà để thức tỉnh bản thân tìm lấy giá trị cuộc đời. → Thể hiện sự thôi thúc, giục giã mạnh mẽ mọi người sống hối hả, cuống quýt, chạy đua với thời gian, đồng thời thể hiện khát vọng yêu thương.

 Biểu hiện của cách sống vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

  • Nhịp thơ như gấp rút, giọng thơ như dồn dập, cảm xúc như dâng trào bật lên thành những ước nguyện cao đẹp.
  • Tác giả gửi gắm ý nghĩa rằng hãy hòa mình cùng thiên nhiên tươi đẹp.

Biện pháp tu từ:  Điệp ngữ : “Ta muốn” (5 lần): Khát khao tâ ̣n hưởng cuô ̣c sống non tơ đang trào dâng mãnh liê t ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơṇ trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diê u.̣  Liệt kê: Những vẻ đẹp bất tận,gợi cảm của cuộc đời.  Động từ tăng tiến: Thái độ vồ vập, cuộc sống mỗi lúc một mãnh liệt hơn, thể hiện khát vọng chiếm lĩnh trọn vẹn các đối tượng tươi đẹp của mùa xuân và tình xuân → Xuân Diệu dường như muốn huy động toàn bộ các giác quan để có thể cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc đời. Cảm nhận, tận hưởng cuộc sống bằng cả tâm hồn. Sống mãnh liệt, sống sâu sắc.  Từ “ôm” đến “riết”, đến “say”, đến “thâu”, đến “cắn”...  Từ “cho” + các tính từ cảm giác: “chuếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”... → Tận hưởng cuộc sống đến mức tối đa, cái gì cũng ở cường độ cao, ở trạng thái mê say, ứ tràn, mãn nguyện, hạnh phúc.  Từ câu thơ 8 chữ bổng rút ngắn thành câu thơ 3 chữ “ta muốn ôm’ làm cho giọng thơ đanh lại, rắn chắc như một mệnh lệnh, đòi hỏi thực hiện hóa khát vọng.  “Ta muốn thâu trong một cái hôn”, “thâu” là thâu tóm tất cả mọi vẻ đẹp về phía mình. “Cái hôn nhiều” ý muốn về độ dài của thời gian,

 Nghệ thuật nhân hóa và ẩ n dụ chuyển đổi cảm giác, động từ “cắn” táo bạo nhưng lại rất nhẹ nhàng → Cụ thể hóa khái niệm trừu tượng (thời gian): Mùa xuân hiện ra như một sinh thể với sắc tươi thắm ngọt ngào, quyến rũ và căng tràn sức sống.  Câu thơ là đỉnh cao của khao khát sống, sự mê đắm cuồng nhiệt và khát khao giao cảm của thi nhân. -> Hôn muôn đời.

Tổng kết NGHỆ THUẬT :

  • Thể thơ : tự do thích hợp với mạch cảm xúc và triết luận của bài.
  • Sử dụng động từ mạnh; ngôn từ,nhịp điệu dồn dập hối hả cuồng nhiệt, giọng điệu say mê, sôi nổi.
  • Sáng tạo độc đáo về ngôn từ, hình ảnh thơ.
  • Các biện pháp nghệ thuật : so sánh, nhân hóa, ẩ n dụ chuyển đổi cảm giác, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ, các động từ mạnh...
  • Cách nhìn cách cảm nhận mớ và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ NỘI DUNG :
  • Tình yêu cuộc sống tha thiết, nồng nàn.
  • Quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc.
  • Lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, quý trọng thời gian... XUÂN DIỆU - “NHÀ THƠ MỚI NHẤT TRONG CÁC NHÀ THƠ MỚI”

BÀI HỌC VỀ QUAN ĐIỂM SỐNG TỪ THI PHẨM “VỘI VÀNG” -

XUÂN DIỆU

 “Vội vàng” để tăng chất lượng cuộc sống chứ không phải là sống gấp, sống hưởng thụ vị kỷ. Sống tận hưởng phải gắn với tận hiến.  Xác định lí tưởng sống đúng đắn, không sống cấp, sống hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa.  Cần có thái độ sống tích cực, chủ động, biết quý trọng thời gian, tuổi trẻ, tận dụng thời gian để học tập, làm việc, không phung phí thời gian vào những việc vô bổ, vô nghĩa vì như thế là tự hủy hoại cuộc đời mình.  Cống hiến cho đất nước, tạo ra được nhiều điều ý nghĩa cho cuộc sống.  Sống vội vàng để theo kịp với tốc độ, sự phát triển của nhịp sống hiện đại, để không bị tụt hậu.  Chúng ta cần một lối sống nhiệt huyết, năng động, hối hả nhưng cũng cần cả những khoảng lặng bình yên, cần phải biết cân bằng giữa sống nhanh và sống chậm, để không quá căng thẳng, dồn dập mà vẫn không quá chậm rãi, kém hiệu quả.