Chủ đề của bài thơ mùa xuân chín là gì năm 2024

Nếu bạn đang tìm cách xây dựng một bài phân tích chặt chẽ và sâu sắc về bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử, hãy tham khảo bài mẫu dưới đây để có thêm kiến thức và làm cho bài viết của bạn trở nên hoàn hảo hơn.

Nội dung bài viết:

  1. Phân tích chi tiết II. Mẫu văn bài phân tích

Chi tiết phân tích bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử

  1. Phân tích cấu trúc bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử [Chuẩn]

1. Giới thiệu

Bài thơ 'Mùa xuân chín' là một kiệt tác, đóng góp quan trọng vào danh tiếng của Hàn Mặc Tử.

2. Phần chính

- Những dấu hiệu báo hiệu sự xuân sang: + Ánh nắng nhẹ nhàng + Khói mơ phôi phai + Mái nhà tranh bên làn khói xanh lựa -> Bình yên, tĩnh lặng, đằm thắm và đong đầy tình yêu thương - Bức tranh về quê hương rực rỡ trong hơi xuân: + Hạt mưa xuân nhẹ nhàng tạo nên sức sống mới + Lá cây xanh tươi như 'gợn sóng' chạm tới bầu trời + Niềm vui của con người hòa mình trong sự xuân tới - Hạnh phúc của đôi lứa - Lời thơ ngây thơ làm rung động trái tim, ngập tràn xao xuyến \=> Xuân mang đến hương thơm 'chín' của tâm hồn và cuộc sống

3. Tổng kết

Ngôn ngữ tinh tế kết hợp với tâm hồn lịch thiệp của Hàn Mạc Tử tạo nên một 'mùa xuân chín' tràn ngập cảm xúc, phong phú và chân thành.

📌 Một số bài viết hữu ích về bài thơ Mùa xuân chín 📝Đánh giá chi tiết bài thơ Mùa xuân chín - Môn Ngữ Văn lớp 10 - KNTT 📝Phân tích đánh giá chi tiết Mùa xuân chín - Môn Ngữ Văn lớp 10 - KNTT 📝Giới thiệu và đánh giá về nội dung, nghệ thuật Mùa xuân chín - Môn Ngữ Văn lớp 10 - KNTT ✍️Viết cảm nhận về một đoạn thơ hoặc một hình ảnh trong Mùa xuân chín - Môn Ngữ Văn lớp 10 - KNTT ✍️Dàn ý phân tích chi tiết Mùa xuân chín - Môn Ngữ Văn lớp 10 - KNTT ✍️Soạn bài về Mùa xuân chín - Môn Ngữ Văn lớp 10 - KNTT

II. Phân tích và đánh giá bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử theo sách giáo trình Ngữ Văn lớp 10 KNTT

1. Khởi đầu: - Giới thiệu về tác giả và tác phẩm. - Đặt vấn đề cần phân tích trong bài viết. 2. Nội dung chính:

  1. Đánh giá ý tưởng và tâm lý của nhân vật trữ tình - Tiêu đề bài thơ: Nêu rõ sự tròn đầy và đầy đủ của mùa xuân. - Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện qua các chi tiết như 'làn nắng ửng', 'khói mơ tan', 'bóng xuân sang', 'sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời'. - Sử dụng biện pháp tu từ, nhịp thơ và gieo vần để tạo ra không gian mở rộng và sự hòa quyện. - Hình ảnh của con người trong bức tranh mùa xuân với tiếng ca trong trẻo và ngây thơ.
  2. Phân tích sự phát triển của hình tượng chính và sự độc đáo của ngôn ngữ sử dụng - Mô tả về khung cảnh mùa xuân với ngôn từ gợi hình: 'làn nắng ửng', 'khói mơ tan', 'bóng xuân sang', 'sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời'. - Sử dụng biện pháp tu từ như ẩn dụ, đảo ngữ để làm nổi bật những chi tiết tinh tế trong bức tranh. - Sự thay đổi linh hoạt trong nhịp thơ và gieo vần tạo ra không gian lớn và sôi động. - Mô tả về con người trong bức tranh mùa xuân, với những chi tiết như 'đám xuân xanh', 'tiếng ca vắt vẻo', 'khách xa', 'chị ấy'. - Sử dụng biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh để làm nổi bật những đặc điểm quan trọng.
  3. Đánh giá nét độc đáo so với các tác phẩm cùng chủ đề - So sánh với bài thơ 'Mùa xuân xanh' của Nguyễn Bính để hiểu rõ hơn về sự độc đáo và hấp dẫn của bài thơ. 3. Tổng kết: - Xác nhận giá trị tư duy và nghệ thuật của bài thơ, cũng như ý nghĩa mà nó mang lại.

II. Bài mẫu Phân tích bài thơ Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử [Chuẩn]

Hàn Mặc Tử, một nhà thơ với phong cách riêng, để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như Gái Quê, Thơ Điên và Chơi Giữa Mùa Trăng. Trong bài thơ 'Mùa xuân chín', ông tạo ra một kiệt tác, đóng góp quan trọng vào danh tiếng của mình.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]

Văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Mùa xuân chín là tài liệu vô cùng hữu ích mà Download.vn muốn giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bạn học sinh lớp 10 tham khảo.

Phân tích bài Mùa xuân chín là một chủ đề hay nằm trong chương trình Ngữ văn 10 sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Tuy nhiên sẽ có nhiều bạn chưa biết cách phân tích đánh giá bài thơ Mùa xuân chín. Nếu như các bạn lớp 10 vẫn còn đang băn khoăn chưa biết nên bắt đầu từ đâu, thì hãy tham khảo dàn ý và bài văn mẫu phân tích Mùa xuân chín, trong bài viết dưới đây nhé.

I – Mở bài

– Giới thiệu Hàn Mặc Tử là một nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới, theo đuổi chủ nghĩa tượng trưng siêu thực

– “Mùa xuân chín” lag một sáng tác của Hàn Mạc Từ trích trong tập “Đau thương” [1938]

II – Thân bài

1. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình

– Mạch cảm xúc bài thơ đi từ bức tranh ngoại cảnh đến bức tranh tâm cảnh, từ cảnh xuân đến tình xuân.

– Nhan đề “mùa xuân chín”

2. Cảnh xuân

– Nhà thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ, tươi đẹp, tràn đầy sức sống

  • Dấu hiệu báo xuân sang: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh, tà áo biếc, giàn thiên lý
  • Những kết hợp từ độc đáo: nắng ửng, khói mơ tan, sóng cỏ, đám xuân xanh
  • Nghệ thuật đảo ngữ “sột soạt gió trêu tà áo biếc”
  • Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “bóng xuân sang”, “tiếng ca vắt vẻo”

\=> Khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả mà đằm thắm yêu thương.

3. Tình xuân

– Nhà thơ thể hiện nỗi nhớ quê, niềm khát khao giao cảm với cuộc đời

  • Niềm vui của con người khi xuân đến: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy / Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”
  • Tình yêu đời, khao khát giao hoà với cuộc đời: “Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi / Hổn hển như lời của nước mây”
  • Nỗi nhớ làng quê da diết: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín / Lòng trí bâng khuâng sự nhớ làng”.

4. Nét hấp dẫn, độc đáo riêng của bài thơ

– So sánh “Mùa xuân chín” với thơ Đường, từ đó làm rõ tính cổ điển và hiện đại trong bài thơ.

III – Kết bài

– Khẳng định giá trị thẩm mĩ, tư tưởng của bài thơ

Phân tích bài thơ Mùa xuân chín

Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” [1938] – được coi là “tiếng thơ thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.

“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với bạn đọc bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.

Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt. Về thời gian, tác giả đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh xuân tươi đẹp phô bày trước mắt, bỗng sực nhớ về quá khứ xa căm với khung cảnh làng quê thân thương. Về cảnh sắc, bức tranh xuân đang từ ngoại cảnh [mái nhà tranh, giàn thiên lí, sóng cỏ xanh tươi,…] thoắt biến thành tâm cảnh [ người con gái dánh thóc dọc bờ sông trắng]. Về cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã bày tỏ dòng tâm tư của bản thân với nhiều bước ngoặt: từ niềm say mê, rạo rực đến trạng thái bâng khuâng, xao xuyến rồi buồn thương da diết. Có thể thấy, mạch thơ không đi theo một chiều mà luôn vận động vô cùng linh hoạt, phong phú. Đó chính là phong cách thơ độc đáo của chàng thi sĩ họ Hàn.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tanĐôi mái nhà tranh lấm tấm vàngSột soạt gió trêu tà áo biếcTrên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.

Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.

Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm có xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!

Từ cảnh thu, Hàn Mạc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi-Ngày mai trong đám xuân xanh ấyCó kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây. Thiên nhiên và con người đồng ca, đồng vọng hay tiếng hát trong lòng thiên nhiên đang cất lên qua lời hát của con người.

Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúcNghe ra ý vị và thơ ngây”

Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” [Đây thôn Vĩ Dạ] đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:

“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chínLòng trí bâng khuâng sực nhớ làng-Chị ấy, năm nay còn gánh thócDọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của người khách xa quê.

Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Không chỉ mùa xuân chín mà lòng người cũng “chín” với khát khao giao cảm với cuộc đời, “chín” với tình yêu và nỗi nhớ. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mạc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng – tinh tế, độc đáo và mới lạ.

Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.

Mùa xuân chín viết về đề tài gì?

Mùa xuân chín là bài thơ do Hàn Mặc Tử sáng tác, được xếp ở phần Hương thơm trong tập thơ Đau thương. Cùng với Đây thôn Vĩ Dạ, Tình quê,... đây là những thi phẩm đầy thơ mộng viết về cảnh quê, tình quê của Hàn Mặc Tử.

Chủ thể trữ tình của Mùa xuân chín là ai?

Trả lời: - Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người có cảm xúc vô cùng tinh tế và nhạy cảm trong những cảm nhận về độ chín của xuân. - Không chỉ vậy, đây còn là người có tình yêu thiên nhiên say đắm, thiết tha với đời, luôn khát khao giao cảm với đời nhưng sâu thẳm lại có sự bất an về sự trôi chảy của thời gian.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ Mùa xuân chín là gì?

Sự song hành và hoà điệu như thế mới tạo nên Mùa xuân chín. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là ở đó. Thiên nhiên mùa xuân cũng được cảm nhận và được mô tả như một thiếu nữ.

Nhan đề Mùa xuân chín có ý nghĩa gì?

"Mùa xuân chín" là tên một bài thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Đó là vẻ đẹp sinh thành "chín" trong tâm trạng rạo rực lòng người, "chín" trong cả cảm thức chín dậy của mùa xuân, sức xuân. "Chín" cả niềm hối tiếc, muốn níu giữ xuân đã qua và hồi hộp ngóng chờ xuân sắp tới.

Chủ Đề