Cơ sở dân đến Sự phát triển cao của nền văn hóa Hy Lạp và Rô-ma là gì

1. Thiên nhiên và đời sống của con người.

- Hi Lạp, Rô-ma nằm ở ven biển Địa Trung Hải, nhiều đảo, đất canh tác ít và khô cứng đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn:

+ Thuận lợi: Có biển, hải cảng, khí hậu ấm áp, nên giao thông thuận lợi, sớm phát triển nghề hàng hải, ngư nghiệp, thương nghiệp biển.

+ Khó khăn: Đất xấu, ít, thích hợp trồng cây lưu niên như nho, ô liu, cam chanh. Lương thực thiếu phải mua lúa mì, lúa mạch của người Ai Cập, Tây Á.

- Khoảng đầu thiên niên kỷ I TCN, cư dân Địa Trung Hải  bắt đầu biết chế tạo công cụ bằng sắt, cho phép khai hoang trên diện tích rộng hơn.

- Thủ công nghiệp rất phát đạt, có nhiều ngành nghề, nhiều thợ giỏi làm ra những sản phẩm nổi tiếng như đồ gốm [bình, chum, bát] có màu sắc và hình vẽ đẹp. Nhiều xưởng thủ công sản xuất ra hàng hóa có chất lượng cao, quy mô lớn…

- Thương nghiệp đường biển rất phát triển, mở rộng buôn bán với mọi miền ven Địa Trung Hải, với các nước phương Đông:

+ Sản phẩm mua về  lúa mì, súc vật lông thú [Hắc Hải, Ai Cập]; tơ lụa, hương liệu, xa xỉ phẩm từ phương Đông.

+ Đê-lốt, Pi-rê là trung tâm buôn bán nô lệ lớn của thế giới cổ đại.

+ Thương mại phát đạt, thúc đẩy sự lưu thông tiền tệ [tiền cổ của Rô-ma và A-ten].

+ Hi Lạp, Rô-ma trở thành các quốc gia giàu mạnh.

2. Thị quốc Địa Trung Hải.

- Do tình trạng đất đai phân tán nhỏ và cư dân sống bằng nghề thủ công và thương nghiệp nên đã hình thành các thị quốc.

- Nước thì nhỏ, nghề buôn phát triển nên cư dân tập trung ở thành thị có phố sá, lâu đài đền thờ, sân vận động, nhà hát và bến cảng, đó là thị quốc. A-ten là thị quốc đại diện cho cả At-tích.

- Tính chất dân chủ của thị quốc: Quyền lực không nằm trong tay quý tộc mà nằm trong tay Đại hội công dân. Đại hội công dân bầu và cử ra các cơ quan nhà nước, [không có vua], quyết định mọi công việc nhà nước. Hội đồng 500 có vai trò như Quốc hội, người ta  bầu 10 viên chức điều hành chính phủ, nhiệm kỳ một năm.

- Bản chất của nền dân chủ cổ đại ở Hi Lạp, Rô-ma là nền dân chủ chủ nô, dựa vào sự bóc lột thậm tệ của chủ nô đối với nô lệ.

- Thị quốc cổ đại là độ thị buôn bán, làm nghề thủ công và sinh hoạt dân chủ, mỗi thành thị là một nước riêng.

- Lãnh thổ thị quốc không rộng nhưng dân số đông, đất trồng trọt ít nhưng có điều kiện phát triển buôn bán nên luôn luôn giữa quan hệ buôn bán với nhau và các vùng xa nên rất giàu có.

- Hi Lạp giàu có nhờ nền kinh tế công thương nghiệp, sử dụng lao động nô lệ. Nô lệ bị bóc lột nên phản kháng chủ nô.

3. Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma.

Đồ sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải chân trời mới, nâng họ lên  trình độ cao hơn về sản xuất và buôn bán trên biển cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hóa cao hơn trước.

a]. Lịch và chữ viết:

- Người Hi Lạp có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời, người Rô-ma tính một năm là 365 ngày ¼, định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày, rất gần với hiểu biết ngày nay.

- Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ nhưng do chữ có nhiều hình, nét, kí hiệu nên khả năng phổ biến bị hạn chế. Họ đã sáng tạo ra chữ viết gồm ký hiệu đơn giản, có khả năng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩa của con người.

- Hệ thống chữ cái Rô-ma tức A, B, C… ra đời, ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6 chữ. Họ cũng có hệ chữ số mà hiện nay thường dùng để đánh số các đề mục [số La Mã]. Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao cho nhân loại.

b]. Sự ra đời của khoa học:

Đến thời cổ đại Hi Lạp – Rô-ma, những hiểu biết khoa học mới thực sự trở thành khoa học vì có độ chính xác của khoa học đạt tới trình độ khái quát thành định lý, lý thuyết và nó được thực hiện bởi các nhà khoa học nổi tiếng như Ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clít..

c]. Văn học:

- Ở Hi Lạp, sau bản anh hùng ca nổi tiếng của Hô-me là I-li-át và Ô-đi-xê đã xuất hiện những nhà văn có tên tuổi mà những tác phẩm của họ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

- Người Rô-ma tự nhận là học trò và người thừa kế của văn học - nghệ thuật Hi Lạp, nhưng họ cũng có những nhà thơ nổi tiếng như Lu-cre-xơ, Viếc-gin..

d]. Nghệ thuật:

- Người Hi Lạp cổ đại để lại nhiều tượng và đền đài đạt trình độ tuyệt mỹ, khiến đời sau khâm phục như người lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần A-tê-na đội mũ chiến binh, thần Vệ nữ Mi-lô…

- Rô-ma có nhiều kiến trúc như đền đài, cầu màng dẫn nước, trường đấu… oai nghiêm, đồ sộ nhưng không tinh tế, gần gũi như những công trình ở Hi Lạp.

Lý thuyết:

Mục a

Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất, buôn bán trên biển. Đó cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước.

a] Lịch và chữ viết

* Lịch

- Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời.

- Tính được 1 năm có 365 ngày và 1/4, định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày.

* Chữ viết

- Người Hy Lạp, Rô ma đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu; khả năng phổ biến bị hạn chế. 

- Sáng tạo ra hệ thống chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B, C... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay.

- Có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các đề mục lớn, gọi là “số La Mã”.

=> Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.

Chữ cái cổ Hi Lạp và La-tinh

Mục b

b] Sự ra đời của khoa học

Đến thời cổ đại Hy Lạp - Rô ma, những hiểu biết khoa học mới thực sự trở thành khoa học vì có độ chính xác của khoa học đạt tới trình độ khái quát thành định lý, lý thuyết và nó được thực hiện bởi các nhà khoa học có tên tuổi, đặt nền móng cho ngành khoa học đó.

+ Toán học: người Hi Lạp vượt lên trên như Ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clít,...

+ Vật Lý: có Ác-si-mét.

+ Sử học: vượt qua sự ghi chép tản mạn, họ biết tập hợp tài liệu, phân tích và trình bày có hệ thống: Hê-rô-đốt, Tu-xi-đít, Ta-xít,...

Mục c

c] Văn học

- Ở Hy lạp, sau bản anh hùng ca nổi tiếng của Hô me là Iliát và Ôđixê, đã xuất hiện những nhà văn có tên tuổi như Etxin, Sô phốc, Bripít.

- Các nhà văn chủ yếu là những biên kịch và các tác phẩm là những kịch bản. Kịch là hình thức nghệ thuật dễ phổ biến và được ưa chuộng nhất.

- Người Rôma tự nhận là học trò và người thừa kế của văn học - nghệ thuật. Hy lạp, nhà thơ nổi tiếng như Lucrexơ, Viếcgin. 

Mục d

d] Nghệ thuật

- Người Hi Lạp cổ đại đã để lại rất nhiều tượng và đền đài đạt tới trình độ tuyệt mĩ. Như: tượng nữ thần A-tê-na đội mũ chiến binh, hoặc các tác phẩm điêu khắc như Người lực sĩ ném đĩa, thần Vệ nữ Mi-lô,...

- Rô-ma có nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cầu máng dẫn nước, trường đấu,... oai nghiêm, đồ sộ, hoành tráng và thiết thực, nhưng không tinh tế, tươi tắn, mềm mại, gần gũi như những công trình ở Hi Lạp.

Đền Parthenon

Tượng lực sĩ ném đĩa

Nội dung chính:

Những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma: lịch, chữ viết, khoa học, văn học, nghệ thuật,...

Sơ đồ tư duy Các quốc gia cổ đại phương Tây - Hi Lạp và Rô - Ma

Sản xuất nông nghiệp ở khu vực Địa Trung Hải thời kì cổ đại chủ yếu là

Hàng hóa quan trọng bậc nhất ở vùng Địa Trung Hải thời kì cổ đại là

Phần chủ yếu của một thị quốc ở vùng Địa Trung Hải thời kì cổ đại là

Quyền lực trong xã hội cổ đại Địa Trung Hải thuộc về

Người Hi Lạp cổ đại đã có hiểu biết về Trái Đất và hệ Mặt Trời như thế nào?

Chữ viết của người Hi Lạp và Rô – ma thời kì cổ đại có đặc điểm gì nổi bật?

Ngành kinh tế nào đóng vai trò chủ đạo ở các quốc gia cổ đại Địa Trung Hải?

Ý nào không phải là đặc điểm của nô lệ trong xã hội cổ đại phương Tây?

Ý nào sau đây không thuộc nội dung dân chủ của các thị quốc cổ đại?

Xã hội cổ đại phương Tây bao gồm những giai cấp nào?

Đặc điểm nổi bật của các nhà nước cổ đại phương Tây là gì?

Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1



Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới,nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất, buôn bán trên biển. Đó cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước.

Bạn đang xem: Vì sao văn hóa cổ đại hi lạp và rô ma phát triển rực rỡ

a] Lịch và chữ viết

Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời. Nhờ đi biển, họ đã thấy Trái Đất không phải như cái đĩa mà như hình quả cầu tròn, nhưng họ vẫn tưởng Mặt Trời chuyển động quanh Trái Đất. Tuy nhiên, họ đã biết nếu tính mỗi vòng như thế là 360 ngày thì không chính xác. Về sau, người Rô-ma đã tính được 1 năm có 365 ngày và 1/4 nên họ định một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày. Song, như thế so với thực tế vẫn bị chậm một ít. Dù sao, phép tính lịch của người Rô-ma cổ đại đã rất gần với những hiểu biết ngày nay.

Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu ; khả năng phổ biến bị hạn chế. Cuộc sống “bôn ba’" trên biển, trình độ phát triển của nền kinh tế đã đặt ra cho cư dân Địa Trung Hải nhu cầu sáng tạo ra một thứ chữ viết gồm các kí hiệu đơn giản, nhưng phải có khả năng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩ của con người.

Hệ thống chữ cái của người Hi Lạp và người Rô-ma đã ra đời từ đó. Hệ chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B. c... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay.

Họ cũng có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các đề mục lớn, gọi là “số La Mã”.

Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.

b] Sự ra đời của khoa học

Nhữns hiểu biết khoa học thực ra đã có từ hàng nghìn nãm trước, từ thời cổ đại phương Đông. Nhưng phải đến thời cổ đại Hi Lạp và Rô-ma, những hiểu biết đó mới thực sự trở thành khoa học.

Với người Hi Lạp. Toán học đã vượt lên trên việc ghi chép và giải các bài riêng biệt. Những nhà toán học mà tên tuổi vẫn còn lại đến nay, đã để lại những định lí, định đề có giá trị khái quát hoá cao.

Xem thêm: Hướng Dẫn Đăng Ký Xét Tuyển Đại Học Quốc Gia, Video Bộ Gd

Định lí nổi tiếng trong Hình học của Ta-lét, những cống hiến của trường phái Pi-ta-go về tính chất của các số nguyên và định lí về các canh của tam giác vuông cùng với tiên đề về đường thẳng song song của ơ-clít,... sau nhiều thế kỉ vẫn là những kiến thức cơ sở của Toán học.

c] Văn học

Trước người Hi Lạp cổ đại, ở Ai Cập và Lưỡng Hà mới chỉ có văn học dân gian. Đó là những bài thơ, truyện huyền thoại được truyền miệng từ người này qua người khác rồi mới ghi lại.

Ở Hi Lạp, sau các anh hùng ca nổi tiếng của Hô-me là I-li-át và ố-đi-xê, đã xuất hiện những nhà vãn có tên tuổi mà những tác phẩm của họ để lại vẫn còn nguyên giá trị độc đáo cho đến ngày nay. Các nhà văn đó chủ yếu là những nhà biên kịch và các tác phẩm của họ là những kịch bản ; bởi vì thời ấy, kịch [có kèm theo hát] là hình thức nghệ thuật dễ phổ biến nhất và được ưa chuộng nhất.

Người Rô-ma tự nhận là học trò và người thừa kế cùa văn học - nghệ thuật Hi Lạp. Tuy nhiên, dựa trên một nền kinh tế phát triển cao, ở thời hưng thịnh của Rô-ma cũng đã xuất hiện những nhà văn hoá, nhà thơ nổi tiếng như Lu-cre-xạ Viếc-gin v.v...

d] Nghệ thuật

Người Hi Lạp cổ đại đã để lại rất nhiều tượng và đền đài đạt tới trình độ tuyệt mĩ.

Đó là những tượng nhỏ, tượng bán thân vốn được dựng ở các quảng trường. Lại có những tượng thần lớn dựng ở đến, như tượng nữ thần A-tê-na đội mũ chiến binh, hoặc các tác phẩm điêu khắc như Người lực sĩ ném đĩa, thần Vệ nữ Mi-iô v.v...

Rô-ma có nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cầu máng dẫn nước, trường đấu... oai nghiêm, đồ sộ, hoành tráng và thiết thực, nhưng không tinh tế, tươi tắn, mềm mại, gần gũi như những công trình ở Hi Lạp.

Video liên quan

Chủ Đề