Dự thảo Luật thuế giá trị gia tăng

19:00' - 31/10/2021

BNEWS Theo VCCI, dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng đang tồn tại những bất cập khi triển khai trên thực tế.

Phản hồi đề nghị của Bộ Tài chính về việc góp ý xây dựng dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng; đồng thời, tổng hợp các thông tin, phản ánh từ phía các doanh nghiệp và hiệp hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [VCCI] cho rằng, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định đang tồn tại những vướng mắc, bất cập khi triển khai trên thực tế. Để hoàn thiện thêm dự thảo, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét một số vấn đề. Cụ thể, đối với các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng khi chuyển nhượng dự án đầu tư, dự thảo đã bỏ quy định “tổ chức, cá nhân chuyển nhượng dự án đầu tư để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, hợp tác xã” thuộc trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế giá trị gia tăng.

Nhiều doanh nghiệp cho rằng, việc điều chỉnh quy định trên là chưa hợp lý, lý do sửa đổi chưa thực sự thuyết phục. Theo đó, sẽ khó phân biệt giữa chuyển nhượng dự án đầu tư và chuyển nhượng tài sản.

Bởi lẽ, chuyển nhượng dự án đầu tư phải thực hiện theo trình tự thủ tục quy định tại pháp luật về đầu tư và các luật chuyên ngành liên quan, như: chuyển nhượng dự án đầu tư kinh doanh bất động sản phải thực hiện thủ tục theo quy định tại Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai…
Đây là một dạng thủ tục hành chính mà các bên trong hoạt động chuyển nhượng phải thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được phép thực hiện chuyển nhượng.

Trong khi đó, chuyển nhượng tài sản có tính chất là giao dịch dân sự đơn thuần, các bên trong giao dịch không cần thực hiện các trình tự thủ tục như hoạt động chuyển nhượng dự án đầu tư.
Ngoài ra, theo phản ánh của doanh nghiệp, trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang chịu tác động nặng nề của dịch COVID-19, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai các dự án đầu tư.

Nếu tính thuế giá trị gia tăng với dự án đầu tư sẽ tạo ra khó khăn cho bên nhận chuyển nhượng.

Dự án thường ở giai đoạn ban đầu, dù phát sinh thuế giá trị gia tăng được khấu trừ nhưng còn thời gian dài mới đến giai đoạn phát sinh thuế giá trị gia tăng đầu ra để bù trừ nên thường phải mất rất nhiều năm để khấu trừ hết thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Hậu quả là doanh nghiệp chịu chi phí vốn quá lớn, không đảm bảo nguyên tắc gián thu của thuế giá trị gia tăng. Từ những phân tích trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc giữ nguyên như quy định hiện hành. Ngoài việc chuyển nhượng các dự án đầu tư, việc tính thuế giá trị gia tăng đối với các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản chưa qua chế biến cũng cần phải có sự tính toán lại.

Dự thảo quy định “doanh nghiệp, hợp tác xã nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ bán sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác, hoặc chỉ qua sơ chế thông thường cho doanh nghiệp, hợp tác xã khác ở khâu kinh doanh thương mại, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng”.

Cụm từ “khâu kinh doanh thương mại” là không rõ và có thể khiến cho quy định này thiếu rõ ràng, gặp vướng khi triển khai. VCCI đề nghị hủy bỏ cụm từ này.
Việc áp giá tính thuế, theo dự thảo quy định “đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho là giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho”.

Quy định về thời điểm xác định giá tính thuế đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho là chưa hợp lý. Bởi vì, sẽ có chênh lệch giữa giá trị hàng hóa thời điểm mua về làm quà và thời điểm cho, biếu, tặng.

Điều này dẫn đến chênh lệch về số thuế giá trị gia tăngcó thể cao hơn khiến cho người nộp thuế phải nộp thêm thuế, trong khi việc cho, biếu, tặng không mang lại doanh thu cho doanh nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng, đối với hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp phải mua vào thì giá tính thuế giá trị gia tăng là giá trên hóa đơn giá trị gia tăng đầu vào. Việc xác định giá đất được trừ để tính thuế giá trị gia tăng trong trường hợp Nhà nước giao đất để đầu tư cơ sở hạ tầng xây dựng nhà để bán, dự thảo lại chưa quy định rõ tiền sử dụng đất không được xem là doanh thu không chịu thuế giá trị gia tăng khi tính thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ của hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng.

Với bản chất của đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng là tính trên giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ, trong khi đó, phần tiền đất tương ứng mà chủ đầu tư trả cho Nhà nước, chủ đầu tư không phát sinh, không tạo ra giá trị gia tăng của phần tiền đất này.

Vì vậy, nếu phải thực hiện phân bổ thì chưa phù hợp với bản chất của thuế giá trị gia tăng và gây bất lợi cho doanh nghiệp. Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo quy định rõ ràng để áp dụng thống nhất và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Về hoàn thuế giá trị gia tăng, theo ý kiến của các doanh nghiệp, cơ bản những quy định sửa đổi, bổ sung tại dự thảo liên quan đến hoàn thuế đối với dự án đầu tư là hợp lý, giải quyết được khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề hoàn thuế giá trị gia tăng còn một số vướng mắc, cần được tháo gỡ và cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung vào nội dung tại dự thảo.

Về nguyên tắc, thuế giá trị gia tăng tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ từ khâu sản xuất, lưu thông tới tiêu dùng cuối cùng. Theo đó, doanh nghiệp sẽ luôn phát sinh thuế giá trị gia tăng phải nộp sau khi khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Nhưng, trên thực tế còn tồn tại một số trường hợp phát sinh số thuế giá trị gia tăng đầu vào lớn hơn đầu ra khiến doanh nghiệp bị tồn đọng thuế giá trị gia tăng đầu vào lớn trong thời gian dài.

Vì vậy, việc bổ sung các quy định cho phép hoàn thuế như trên sẽ hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn khi bị tồn đọng số thuế giá trị gia tăng chưa được khấu trừ trong giai đoạn dài, ảnh hưởng tới dòng tiền của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh những đề xuất nêu trên, theo phản ánh của doanh nghiệp, vẫn còn một số vướng mắc khác liên quan đến kê khai tính thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản có chuyển nhượng quyền sử dụng đất; đặc biệt là trường hợp đất chưa có cơ sở hạ tầng khi giá đất thay đổi giữa thời điểm nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thời điểm chuyển quyền sử dụng đất.

Hay việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ xuất khẩu cũng đang phát sinh bất cập, vướng mắc đối với việc xác định dịch vụ xuất khẩu, do quy định hiện hành  chưa hướng dẫn rõ một số trường hợp đặc thù của dịch vụ xuất khẩu; việc xử lý thuế giá trị gia tăng khi điều chuyển tài sản cho chi nhánh hạch toán phụ thuộc... Do đó, VCCI kiến nghị soạn thảo xem xét nội dung dự thảo và bổ sung thêm các hướng dẫn chi tiết về việc xử lý thuế giá trị gia tăng đối với những trường hợp nêu trên./.

Cũng theo trả lời Công văn số 10918/BTC-CST của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng [Dự thảo], bên cạnh một số điều chỉnh chưa hợp lý, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam [VCCI] cũng cho rằng, giá tính thuế còn tồn tại một số bất cập chưa đảm bảo tính hợp lý.

Giá tính thuế tại Dự thảo được cho còn tồn tại, bất cập - Ảnh minh họa

Cụ thể, khoản 2 Điều 4 Dự thảo quy định “đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho là giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho”.

Theo VCCI, quy định về thời điểm xác định giá tính thuế đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho là chưa hợp lý. Bởi, sẽ có chênh lệch giữa giá trị hàng hóa thời điểm mua về làm quà và thời điểm cho, biếu, tặng. Điều này dẫn đến chênh lệch về số thuế GTGT, có thể cao hơn khiến cho người nộp thuế phải nộp thêm thuế, trong khi việc cho, biếu, tặng không mang lại doanh thu cho doanh nghiệp.

Vì vậy, để đảm bảo tính hợp lý, VCCI đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng, đối với hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp phải mua vào thì giá tính thuế GTGT là giá trên hóa đơn GTGT đầu vào;

Về xác định giá đất được trừ để tính thuế GTGT trong trường hợp Nhà nước giao đất để đầu tư cơ sở hạ tầng xây dựng nhà để bán quy định tại điểm 3.a.1 của Dự thảo, tuy nhiên, chưa quy định rõ tiền sử dụng đất không được xem là doanh thu không chịu thuế GTGT khi tính thuế GTGT không được khấu trừ của hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT.

VCCI cho rằng, với bản chất của đối tượng chịu thuế GTGT là tính trên giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ, trong khi đó phần tiền đất tương ứng mà chủ đầu tư trả cho Nhà nước, chủ đầu tư không phát sinh, không tạo ra giá trị gia tăng của phần tiền đất này. Vì vậy, nếu phải thực hiện phân bổ thì chưa phù hợp với bản chất của thuế GTGT và gây bất lợi cho doanh nghiệp.

“Trên thực tế, cơ quan thuế ở các địa phương có cách xử lý khác nhau với nội dung trên [có trường hợp yêu cầu phân bổ, có trường hợp không]. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ ràng để áp dụng thống nhất và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp”, VCCI góp ý.

VCCI đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ ràng để áp dụng thống nhất và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp - Ảnh minh họa

Về giá đất được trừ để tính thuế GTGT trong trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, điểm a.4, khoản 3 Điều 4 Dự thảo thay đổi quy định, với trường hợp nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm cơ sở hạ tầng theo hướng giá đất được trừ không bao gồm thuế GTGT đầu vào của cơ sở hạ tầng, tuy nhiên chưa làm rõ thuế GTGT đầu vào của cơ sở hạ tầng được khấu trừ.

VCCI đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc quy định theo hướng doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với phần cơ sở hạ tầng không tính vào giá đất được trừ khi chuyển nhượng để đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp và tạo cách hiểu thống nhất trong áp dụng giữa các cơ quan thuế địa phương.

Bên cạnh đó, liên quan đến Hoàn thuế GTGT quy định tại Điều 10 của Dự thảo, theo VCCI, về cơ bản các quy định sửa đổi, bổ sung tại Dự thảo liên quan đến hoàn thuế đối với dự án đầu tư là hợp lý, giải quyết được khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, đặc biệt là quy định hoàn thuế quy định tại điểm 2.a Điều 10 Dự thảo.

Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, trên thực tế vấn đề hoàn thuế GTGT còn một số vướng mắc, cần được tháo gỡ, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung vào quy định tại Dự thảo, như: Bổ sung quy định cho phép hoàn thuế GTGT với số thuế GTGT lũy kế 12 tháng/04 quý liên tục chưa khấu trừ hết; Bổ sung quy định cho phép hoàn thuế cho trường hợp sản xuất hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 5% nhưng đầu vào chủ yếu thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 10% nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết sau 12 tháng hoặc 04 quý.

Cũng theo VCCI, về nguyên tắc, thuế GTGT tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ từ khâu sản xuất, lưu thông tới tiêu dùng cuối cùng. Theo đó, doanh nghiệp sẽ luôn phát sinh thuế GTGT phải nộp sau khi khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Tuy nhiên, trên thực tế còn tồn tại một số trường hợp phát sinh số thuế GTGT đầu vào lớn hơn đầu ra khiến doanh nghiệp bị tồn đọng số thuế GTGT đầu vào lớn trong thời gian dài, gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp trong doanh nghiệp vẫn phải đi vay, đặc biệt trong giai đoạn phải đối phó với tình hình dịch bệnh như hiện nay.

“Vì vậy, việc bổ sung các quy định cho phép hoàn thuế như đã nêu sẽ hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn khi bị tồn đọng số thuế GTGT chưa được khấu trừ trong giai đoạn dài, ảnh hưởng tới dòng tiền của doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh”, VCCI góp ý.

Đánh giá của bạn:

Video liên quan

Chủ Đề