Họ Nông chiếm bao nhiêu phần trăm

Dinh thự dòng họ Nông gắn với một giai đoạn lịch sử quan trọng của tỉnh Cao Bằng. Đây không chỉ là công trình kiến trúc nghệ thuật - văn hoá mà còn là di tích gắn liền với quá trình đấu tranh bảo vệ lãnh thổ, biên cương tại Bảo Lạc. Công trình vốn thuộc về dòng họ Nông ở Bảo Lạc - là dòng họ Thổ ty thế tập dưới triều Nguyễn, có nhiều đóng góp với nước, với dân và dòng họ, góp phần giữ gìn biên cương, chủ quyền lãnh thổ quốc gia. 

Trước kia Dinh thự dòng họ Nông nằm trong một khuôn viên rộng, có 2 cây dã hương cổ thụ hơn 100 tuổi trước cổng và gồm 2 nhà chính [nhà trong và nhà ngoài]. Nguồn: UBND huyện Bảo Lạc

Giữa thế kỷ XVIII, châu Bảo Lạc do Thổ ty Nông Văn Bật cai quản. Thời Tây Sơn, con của Nông Văn Bật là Nông Văn Liêm thế tập. Đến thời Nguyễn, sau khi Nông Văn Liêm và con trưởng là Nông Văn Trang mất, người con thứ hai là Nông Văn Vân giữ chức Tri châu Bảo Lạc. Năm Canh Ngọ 1870, Thổ ty Bảo Lạc Nông Hồng Thạc qua đời, thế hệ kế tiếp của chúa Nông Hồng Thạc là các con Nông Hồng Ân, Nông Hồng Phúc, Nông Hồng Tân tiếp tục sự nghiệp của ông cha, đánh đuổi giặc ngoại xâm và dẹp nạn cướp phá.

Dinh thự dòng họ Nông do Tri phủ Nông Hồng Tân xây dựng vào năm 1890, gắn liền với một số nhân vật lịch sử của dòng họ Nông như: Nông Văn Bật, Nông Văn Liêm, Nông Văn Vân, Nông Hồng Thạc… có nhiều công lao chống giặc ngoại xâm và bảo vệ biên cương lãnh thổ Việt Nam. Trước kia dinh thự nằm trong một khuôn viên rộng, có 2 cây dã hương cổ thụ hơn 100 tuổi trước cổng, gồm nhà trong và nhà ngoài.

Ban đầu, Tri phủ Nông Hồng Tân làm nhà riêng to rộng, kiến trúc bằng gỗ rất khang trang, độc đáo và tọa lạc ở một vị trí rất đắc địa. Dinh thự này gồm 2 nhà chính với tổng diện tích trên 300 m2. Xung quanh ngôi nhà được thiết kế nhiều gian nhà gỗ khác làm nơi ở cho các gia nhân và người hầu. Ngoài ra còn có khu chuồng ngựa có thể chứa hàng trăm con ngựa, cùng một khu sân rộng dùng tập luyện võ nghệ và chơi thể thao.

Đến năm 1909, con rể nạp tế của gia tộc tri châu Bảo Lạc là Nông Quảng Tuyên [tức Nguyễn Đình Giai] nâng cấp, tân trang và xây thêm một nhà gạch bên ngoài với kiến trúc phương Tây kết hợp kiến trúc địa phương, được xây bằng gạch đất nung, vôi và đường phên bản địa.

Dinh thự dòng họ Nông nằm dưới tán cây dã hương cổ thụ. Nguồn: UBND huyện Bảo Lạc

Hiện tại Dinh thự dòng họ Nông nằm ở trung tâm thị trấn Bảo Lạc [huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng], chỉ còn lại 1 ngôi nhà chính có kiến trúc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc phương Tây và địa phương; cùng 01 cây dã hương cổ thụ trong khuôn viên. Nếu nhìn tổng thể ngôi nhà có các đường nét mang nét kiến trúc Pháp, duy chỉ có phần mái là vẫn lợp ngói âm dương theo lối địa phương. Hiện nay, dinh thự dòng họ Nông thị trấn Bảo Lạc là ngôi nhà cổ duy nhất của tỉnh Cao Bằng. 

Không chỉ có giá trị lịch sử và kiến trúc, Dinh thự dòng họ Nông cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân. Dòng họ Nông đã có công đánh giặc bảo vệ lãnh thổ, biên cương Bảo Lạc. Nhờ công lao của dòng họ Nông mà cuộc sống người dân vùng biên giới trở lại bình yên. Để khắc ghi công ơn, làm gương sáng cho các thế hệ mai sau và con cháu dòng họ noi theo, năm 2018 nhà thờ tổ họ Nông được xây dựng trên khu đất Dinh thự dòng họ Nông, người đứng ra kêu gọi xây dựng là ông Dương Văn Tấn [chắt ngoại đời thứ 6 dòng họ Nông] sống tại tổ khu phố 1, thị trấn Bảo Lạc và cũng là người đứng ra tổ chức lo liệu việc sửa soạn, cúng giỗ vào ngày 17/10 hàng năm.

Dinh thự dòng họ Nông cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân. Nguồn: UBND huyện Bảo Lạc

Nhận thấy sự cần thiết phải bảo tồn, gìn giữ nguyên trạng, sưu tầm, tìm kiếm các hiện vật di tích, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Cao Bằng đã phối hợp với UBND huyện Bảo Lạc lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh và được Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng phê duyệt tại Quyết định số 2606/QĐ – UBND ngày 30/12/2021.

Theo ông Nguyễn Mạnh Hùng - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND huyện Bảo Lạc, chính quyền và nhân dân huyện Bảo Lạc quyết tâm gìn giữ, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các điểm di tích lịch sử; giá trị các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và quản lý khai thác thật khoa học, có hiệu quả kho tàng di sản văn hóa trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. 

"Trong thời gian tới huyện có định hướng xin chủ trương của tỉnh trùng tu, tôn tạo Dinh thự họ Nông thành bảo tàng dân tộc của huyện. Đây sẽ là nơi trưng bày hiện vật di tích và không gian văn hóa của 7 dân tộc anh em huyện Bảo Lạc, thu hút đông đảo du khách đến với Bảo Lạc, góp phần thúc đẩy phát triển tiềm năng du lịch của các huyện miền Tây và của tỉnh Cao Bằng" - ông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết./.

VOV.VN - Bức cửa võng đình làng Diềm ở xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có tuổi đời hơn 300 năm, là một kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị, đại diện cho đỉnh cao nghệ thuật chạm khắc gỗ kết hợp sơn son thếp vàng thời Lê trung hưng, vừa được công nhận là Bảo vật quốc gia.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Người Kinh chiếm 85,4% dân số Việt Nam, với  78,32 triệu người. 53 dân tộc thiểu số [DTTS] còn lại chỉ chiếm 14,6% dân số cả nước [Xem bảng 1].1

Mặc dù Việt Nam ủng hộ Tuyên bố về quyền của người bản địa [UNDRIP], Chính phủ không đồng nhất khái niệm người dân tộc thiểu số với người bản địa. Thay vào đó, Chính phủ dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” để chỉ chung cho những người không thuộc dân tộc Kinh, thể hiện chủ trương “thống nhất trong đa dạng” của Chính phủ.2

Giữa các DTTS cũng có rất nhiều khác biệt. Trong số đó, người Hoa [dân tộc Hán] có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, và họ cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.3 Vì vậy, người Hoa thường không được ghi nhận là một “dân tộc thiểu số” ở Việt Nam.4 Các dân tộc khác, ví dụ như dân tộc H’Mông và dân tộc Nùng chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và duy trì đời sống văn hóa gắn liền với những khu rừng.5 Các DTTS cũng được phân chia theo hệ ngôn ngữ. Ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam được chia làm 8 nhóm: Việt – Mường, Tày – Thái, Môn – Khmer, Mông – Dao, Ka đai, Nam đào, Hán và Tạng.6 96% các dân tộc thiểu số nói tiếng mẹ đẻ của họ.7

Bảng 1: Dân số trung bình cả nước và dân số dân tộc thiểu số

TT

Chỉ tiêu

Dân số [người]

Tỷ lệ [%]

I

Ước tính dân số trung bình [1/4/2015]

91.713.345

100,0

Trong đó

Nam

45.234.104

49,3

Nữ

46.479.241

50,7

Thành thị

31.131.496

33,9

Nông thôn

60.581.849

66,1

II

Ước tính Dân số dân tộc thiểu số cả nước [01/7/2015]

13.386.330

100,0

Trong đó

Nam

6.721.461

50,2

Nữ

6.664.869

49,8

Thành thị

1.438.315

10,7

Nông thôn

11.948.015

89,3

Nguồn: Trung tâm Quyền của người dân tộc thiểu số và miền núi [HRC]

Đồng bào các DTTS thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa8, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và nhập cư. Các DTTS sinh sống ở khu vực thành thị thường sung túc hơn các DTTS sống ở khu vực nông thôn. 9 Nhiều làng, xã có tới 3-4 DTTS khác nhau cùng sinh sống.10 Vị trí địa lý đóng một vai trò quan trọng trong các tập tục văn hóa của các DTTS, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục.11

Biểu đồ 1: Dân tộc thiểu số Việt Nam

Nguồn: Dữ liệu khảo sát 53 DTTS năm 2015, Ủy ban Dân tộc 

Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất cơ bản tại những địa bàn người DTTS sinh sống chủ yếu vẫn còn hạn chế. 72% DTTS không có nhà vệ sinh đạt chuẩn, và hơn ¼ số hộ DTTS không được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh.12 Tỉ lệ hộ có điện sinh hoạt tương đối cao ở Việt Nam, tuy nhiên phần lớn các hộ sinh sống tại khu vực nông thôn và vùng núi chưa được sử dụng điện lưới, gây nên tình trạng mất cân đối trong đời sống đồng bào DTTS.

Tuy còn thiếu thốn về điều kiện giáo dục so với đồng bào Kinh,13 các DTTS đều có đại diện với vai trò cán bộ và công chức trong các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp tỉnh và thành phố.14 Tuy nhiên, trình độ văn hóa, đặc biệt là tỷ lệ biết chữ có khác biệt lớn giữa các nhóm DTTS. Tỷ lệ trung bình cho 53 DTTS là 79,8%, tuy nhiên con số này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao nhất là các dân tộc Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Tỷ lệ người lao động là DTTS đã qua đào tạo bằng 1/3 của cả nước.15 

Một trong những rào cản của giáo dục ở vùng cao chính là khoảng cách địa lý. Nhiều học sinh người DTTS phải đi một quãng đường xa để tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km16 Thêm vào đó, người được đi học chủ yếu vẫn là nam giới, do tư tưởng lỗi thời “trọng nam khinh nữ”  vẫn còn tồn tại ở đồng bào DTTS.

Biểu đồ 2: Tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết đọc và viết phổ thông năm 2015
Nguồn: Trung tâm Quyền của người dân tộc thiểu số và miền núi [HRC] 2015

Tuy các DTTS có sự khác biệt với nhau về phong tục tập quán, rừng vẫn đóng vai trò quan trọng với phần lớn các DTTS. Người Mông, Thái, Dao đỏ, Vân Kiều, Ja Rai, Ê Đê, và Ba Na sinh sống trên nhiều tỉnh thành trên cả nước vẫn nương tựa vào rừng cộng đồng. Họ có những khu rừng thiêng phục vụ mục đích về tâm linh tín ngưỡng cũng như người Kinh có đền thờ và nhà thờ dòng họ. Luật tục cũng quy định những khu rừng đầu nguồn, rừng nguồn nước nơi người dân thờ Thần Nước. Ngoài ra còn có các khu rừng khai thác sản phẩm chung của cả làng bản, ví dụ như dược liệu, củi, và vật liệu để làm đồ thủ công.17 Hình thức quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong phong tục tập quán cũng như sinh kế của các DTTS tại Việt Nam. Dưới đây là phim tài liệu về Người H’Mông và lễ cúng các vị thần rừng tại Xã Sín Chéng, Huyện Simacai, Tỉnh Lào Cai do Trung tâm Tư vấn Quản lý Bền vững Tài nguyên và Phát triển Văn hóa Cộng đồng Đông Nam Á [CIRUM] biên tập.

[Xem thêm các phim tài liệu về thực hành tôn giáo và phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số tại đây]

Ngoài sản xuất lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp là sinh kế với nhiều DTTS.18 Cả hai hình thức canh tác lâm nghiệp và nông nghiệp đều cần có đất. Tuy nhiên các DTTS vẫn còn gặp nhiều khó khăn về quyền đất đai để duy trì hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hóa. Trong nỗ lực bảo vệ sinh kế và khuyến khích bảo vệ môi trường, một số cộng đồng đã được chính phủ giao đất để họ tiếp tục quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng.19 Tuy nhiên việc làm này chưa được phổ biến rộng rãi. Năm 2015, chỉ có 26% tổng diện tích đất rừng được giao cho các hộ, và chỉ có 2% được giao cho cộng đồng quản lý.20  Thêm vào đó, mặc dù Luật Đất đai thừa nhận quyền sở hữu đất đai theo luật tục, đất đai phần lớn vẫn thuộc sự quản lý của Chính phủ, và Luật Dân sự không thừa nhận cộng đồng như một pháp nhân.21

Có nhiều khác biệt về chính sách, luật pháp và các quy định liên quan đến quyền sở hữu đất đai và rừng giữa các tỉnh thành trên cả nước.22 Điều này ảnh hưởng đến phụ nữ DTTS. Theo truyền thống, họ được coi là những người lưu giữ tri thức về người bản xứ cũng như những người bảo vệ rừng, tuy nhiên vai trò này không được ghi nhận trong luật.23 Hệ thống đăng ký thông tin đất đai chỉ mới bắt đầu [năm 2014] quy định cần cả tên của vợ và chồng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.24 Kể cả khi có tên trên các văn bản này, nhiều phụ nữ thừa nhận họ thiếu tự tin khi đưa ra những quyết định liên quan đến sử dụng đất.25 

Hiến pháp nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả công dân Việt Nam, trong đó có quyền của các dân tộc thiểu số.26  Việt Nam không có một bộ luật riêng về DTTS nhưng có riêng một cơ quan ngang bộ phụ trách các vấn đề về DTTS đó là Uỷ ban Dân tộc.27 Trong giai đoạn 2011 – 2015, Nhà nước đã ban hành 180 văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các DTTS28 Có nhiều chính sách đã phát huy hiệu quả tốt như Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về giảm nghèo bền vững và Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo.29 Mặc dù được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và chính sách, các DTTS vẫn là những đối tượng dễ bị tổn thương, nhất là khi họ bị mất đi những cánh rừng, nơi khởi nguồn tín ngưỡng và phong tục tập quán của họ.30 Các chính sách liên quan đến người DTTS chưa thực sự giải quyết được các vấn đề đặt ra, do có sự chồng chéo về nội dung. Thêm vào đó, triển khai luật còn chưa hiệu quả.31 Nguồn lực để triển khai chính sách còn hạn chế, dẫn đến việc điều phối và triển khai thiếu hiệu quả. Phát triển đất đai và nhập cư càng tăng thêm sức ép lên quyền của các DTTS32 Các chính sách dân tộc cần tập trung giải quyết nhu cầu cho từng đối tượng cụ thể, thay vì thiết kế theo phương thức “một can thiệp phù hợp cho tất cả”.33 Không có nhiều chính sách được xây dựng theo cách tiếp cận từ dưới lên.34 Tuy vậy, năm 2015 Chính phủ Việt Nam đã tiến hành khảo sát các DTTS lần đầu tiên, minh chứng cho việc xây dựng chính sách dành riêng cho các DTTS.35 Trên thực tế, dữ liệu từ khảo sát này được sử dụng cho Hoạch định chính sách phát triển cho các vùng DTTS giai đoạn 2016-2020.36 Nỗ lực này đáng được ghi nhận, mặc dù trên thực tế vẫn còn những hạn chế liên quan đến quy trình thu thập dữ liệu.37  

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện bất bình đẳng giới ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đặc biệt tới cộng đồng DTTS. 38 Cần có nhiều chương trình cụ thể hơn hướng tới đối tượng phụ nữ DTTS39 Ví dụ, liên quan tới đất đai, cần có những biện pháp để giúp cải thiện sự chủ động và tự tin cho phụ nữ DTTS. Một ví dụ khác, để tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe sinh sản,40, giáo dục và các dịch vụ khác cần được cung cấp dưới hình thức dễ tiếp cận, nhất là về ngôn ngữ vì phần lớn người DTTS không nói tiếng Việt, và phụ nữ DTTS có tỷ lệ biết chữ thấp hơn so với nam giới.41

Video liên quan

Chủ Đề