Khách thể của các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người được hiểu như thế nào

Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người được quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 [sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự] bao gồm 34 Điều quy định 34 tội danh cụ thể.

1. Khái niệm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

Hiến pháp năm 2013 quy định:

“Điều 19.

Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật.

Điều 20.

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.”

Để bảo đảm thực hiện các nguyên tắc được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, Bộ luật hình sự năm 2015 đã dành một chương riêng quy định những hành vi xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người là phạm tội và quy định hình phạt áp dụng đối với người có hành vi phạm tội.

Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người.

2. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

2.1. Khách thể của tội phạm

Các tội phạm ở chương này xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người. Cuộc sống của con người được tính từ thời điểm được sinh ra cho đến khi chết. Như vậy, không thể coi một người đang sống khi chưa lọt lòng mẹ [còn ở trong bào thai] hoặc khi người đó không còn khả năng tiếp nhận những yếu tố đảm bảo sự sống, tức là khi họ chỉ còn là xác chết.

Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống trong điều kiện bình thường, là trạng thái tâm sinh lý, sự hoạt động hài hoà trong cơ thể cả về thần kinh và cơ bắp, tạo nên khả năng chống lại bệnh tật. Hành vi xâm phạm sức khoẻ con người là là hành vi dùng tác động ngoại lực hoặc bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây nên những tổn thương ở các bộ phận trong cơ thể, gây bệnh tật, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của người đó. Nó làm tổn hại đến khả năng suy nghĩ, học tập, lao động, sáng tạo của nạn nhân.

Nhân phẩm, danh dự con người là những yếu tố về tinh thần, bao gồm phẩm giá, giá trị, sự tôn trọng, tình cảm yêu mến của những người xung quanh, của xã hội đối với người đó. Hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người là làm cho người đó bị xúc phạm, bị coi thường, bị khinh rẻ trong gia đình, tập thể, trong nhân dân, trong xã hội tuỳ thuộc vào vị thế, vai trò và nhiệm vụ, tuổi tác của người đó và mức độ của hành vi phạm tội.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Các tội phạm ở Chương này được thể hiện ở những hành vi nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm. danh dự của con người. Đa số những hành vi nguy hiểm được thực hiện bằng hành động cụ thể, có thể sử dụng các loại công cụ, phương tiện khác nhau tạo nên sự tác động vật chất vào thân thể của con người, gây ra những tổn hại cho người đó. Đối với các hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người thường được thể hiện bằng lời nói, cử chỉ xâm phạm đến uy tín, danh dự của người bị hại.

Trong một số tội phạm ở Chương này, hành vi phạm tội thể hiện bằng không hành động, tức là không làm một việc theo trách nhiệm phải làm, đã gây nên những tổn hại nhất định cho người bị hại. Ví dụ: hành vi không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng [Điều 132]...

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm này là những tổn hại về thể chất như gây chết người; gây tổn hại về sức khỏe; cách ly trẻ em khỏi sự quản lý của gia đình hoặc người thân; mua, bán người phụ nữ; truyền bệnh nguy hiểm cho người khác, v.v... hoặc gây tổn hại về tinh thần như xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người...

Đa số các tội phạm có cấu thành vật chất, tức là phải có hậu quả xảy ra thì tội phạm mới được coi là hoàn thành. Ví dụ tội giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ [Điều 124 Bộ luật Hình sự] quy định chỉ khi có hậu quả đứa trẻ mới sinh trong vòng 07 ngày bị mẹ đẻ giết hoặc vứt bỏ dẫn đến chết thì người mẹ mới bị coi là phạm tội. Để truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội này cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả xảy do chính hành vi phạm tội đó gây ra. Tuy nhiên vẫn có một số tội, dấu hiệu hậu quả chỉ mang ý nghĩa định khung hình phạt. Ví dụ tội giết người, nếu hậu quả chết người xảy ra, người phạm tội đương nhiên chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng trong trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi giết người nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người giai đoạn phạm tội chưa đạt.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.

Thứ nhất, một số tội phạm như tội giết người [Điều 123], tội hiếp dâm [Điều 134], tội làm nhục người khác [Điều 155],... chủ thể thực hiện tội phạm trên có thể là bất kì ai, là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch, là cá nhân thực hiện tội phạm một mình hoặc là trường hợp phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên một số tội lại quy định chủ thể của tội phạm là các chủ thể đặc biệt như lây truyền HIV cho người khác [Điều 148] chỉ có thể là người nhiễm HIV, chủ thể của tội bức tử [Điều 130] chỉ có thể là người được người khác lệ thuộc,...

Thứ hai, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự chia ra hai mức tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người từ đủ 16 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Đa số chủ thể thực hiện tội phạm phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên, một số trường hợp như tội giết người, tội hiếp dâm,.. độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người từ đủ 14 tuổi. Cá biệt, Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi [Điều 145], Tội dâm ô người dưới 16 tuổi [Điều 146], Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm [Điều 147] quy định riêng chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với 03 tội này phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

Thứ ba, chủ thể thực hiện tội phạm phải là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi. Thiếu một trong hai năng lực này, người đó bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự và được loại trừ trách nhiệm hình sự theo Điều 21 Bộ luật hình sự hoặc bị áp dụng các biện pháp tư pháp theo quy định của Bộ luật này.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Phần lớn các tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý [trực tiếp] như tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác... Tuy vậy, cũng có tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý như: tội vô ý làm chết người [Điều 128]; vô ý gây thương tích hoặc tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác [Điều 138]...

Ngoài ra, một số tội phạm ở Chương này còn được thực hiện do lỗi cố ý [gián tiếp] như tội bức tử [Điều 130], tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong khi thi hành công vụ [Điều 137].

Ở một số tội, mục đích và động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm như: tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng [Điều 126]; tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng [Điều 136].

Bộ luật hình sự còn quy định động cơ hoặc mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tăng nặng ở một số cấu thành tăng nặng như: động cơ đê hèn; để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; vì mục đích mại dâm, để đưa ra nước ngoài; để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo...

Đối với các tội khác, động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ tội lây truyền HIV cho người khác, tội truyền HIV cho người khác [Điều 148,149].

Luật Hoàng Anh

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm theo khoản 1 Điều 20 Hiến pháp.

Như vậy, danh dự và nhân phẩm con người là khách thể được pháp luật bảo vệ, những hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm được xử lý theo quy định của pháp luật. Vậy thế nào là hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người? Xử lý hành vi này như thế nào? Để làm rõ thắc mắc trên cho Quý độc giả, chúng tôi thực hiện bài viết Ví dụ về xâm phạm danh dự, nhân phẩm này. Mời Quý vị theo dõi nội dung.

Thế nào là hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người?

Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm là một trong những quyền nhân thân, tức là gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Quyền này được quy định cụ thể tại Điều 34 Bộ luật dân sự, cụ thể như sau:

Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

Hiện tại pháp luật chưa cho một định nghĩa chính thức, cụ thể nào về danh dự, nhân phẩm và hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người. Tuy nhiên, có hiểu: Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm là dùng những lời lẽ thô bỉ, tục tĩu đế nhục mạ nhằm hạ uy tín gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho người khác.

Ví dụ về xâm phạm danh dự, nhân phẩm

Chúng tôi xin đưa ra Ví dụ về xâm phạm danh dự nhân phẩm dựa trên một vụ việc có thật về hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm đã bị xử lý về tội vu khống như sau:

Do có mâu thuẫn trong công việc với A, B đã có bài đăng trên nhiều diễn đàn lớn bịa đặt nội dung A có mối quan hệ không lành mạnh với H – 1 người đã có gia đình, đồng thời yêu cầu mọi người chia sẻ nội dung này nhằm xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm của A. Sau khi được đăng tải lên mạng xã hội, bài đăng này đã được nhiều người bình luận, chia sẻ. Nhiều cuộc gọi được gọi đến số máy của A [đăng tải kèm theo bài viết] để làm quen, gạ gẫm làm xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của A. Qua quá trình điều tra, B đã thừa nhận hành vi. Xét thấy có đầy đủ yếu tố cấu thành Tội vu khống theo điểm e khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự, căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ việc và nhân thân người phạm tội, Tòa án ra quyết định tuyên phạt B 9 tháng tù, được hưởng án treo với thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án, đồng thời phải xin lỗi công khai, cải chính thông tin và bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần cho A theo số tiền mà hai bên đã thỏa thuận.

Tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác là gì?

Khi nói đến một tội danh là chúng ta đang nói đến hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Hiện nay, trong Bộ luật hình sự không có Tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác bởi hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm người khác có nhiều hình thức khác nhau, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nên được Bộ luật hình sự cụ thể thành các tội phạm riêng biệt. Hai tội phạm phổ biến nhất là Tội làm nhục người khác và Tội vu khống người khác, cụ thể như sau:

Điều 155. Tội làm nhục người khác

1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a] Phạm tội 02 lần trở lên;

b] Đối với 02 người trở lên;

c] Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d] Đối với người đang thi hành công vụ;

đ] Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;

e] Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g] Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a] Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b] Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 156. Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a] Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b] Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a] Có tổ chức;

b] Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c] Đối với 02 người trở lên;

d] Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ] Đối với người đang thi hành công vụ;

e] Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g] Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

h] Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a] Vì động cơ đê hèn;

b] Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c] Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Video liên quan

Chủ Đề