Luận văn về biến đổi khí hậu ở việt nam

Ban giám hiệu trường Đại Công Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh vì đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thông tin.

Xin cảm ơn giảng viên bộ môn – Cô Lê Thị Vu Lan đã giảng dạy tận tình, chi tiết để nhóm chúng em có đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài tiểu luận này.

Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến thức, trong bài tiểu luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Lời cuối cùng, em xin kính chúc Cô nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.”

STT Họ và tên MSSV 1 Đoàn Thị Mai Hoa 2182302856 2 Nguyễn Thị Yến Nhi 2182301255 3 Lê Thị Ánh Tuyết 2182309341 4 Nguyễn Huỳnh Minh Trí 2182309642 5 Phạm Thị Hồng An 2182308608 6 Trần Đình Minh Anh 2182302485

LỜI MỞ ĐẦU

Biến đổi khí hậu, trước hết là “sự nóng lên” toàn cầu và mực nước biển dâng là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21. Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang gia tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới, nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục tăng nhanh chưa từng có và đang là mối lo ngại của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,70°C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới [2007], Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trong đó vùng đồng bằng sông Hồng và sông Mê Kông bị ngập chìm nặng nhất. Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%. Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất đối với GDP lên tới 25%. Hậu quả của biến đổi khí hậu đối với thế giới là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu đối với sự phát triển của mỗi đất nước. Xuất phát từ những thực tế đó nên em chọn đề tài nghiên cứu về biến đổi khí hậu để có cái được cái nhìn tổng quát và đưa ra những biện pháp nhằm thích ứng và đối phó với nó.

Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay được coi như là một sự thực và là một hiện tượng toàn cầu, có những ảnh hưởng đáng kể tới cuộc sống con người. Vấn đề ô nhiễm môi trường bắt nguồn từ khi con người biết săn bắt, hái lượm, biết làm chủ thiên nhiên và dần dần biết cách chế ngự, thay đổi thiên nhiên. Sự thay đổi, chế ngự thiên nhiên mang lại lợi ích thiết thực cho nhu cầu thiết yếu và sự phát triển của con người. Tuy nhiên khi đạt đến một mức độ nào đó vượt quá ngưỡng giới hạn chịu đựng của các sinh vật, của thiên nhiên sẽ nảy sinh vấn đề ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường sống tồn tại dưới các dạng ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất, ô nhiễm nước, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm phóng xạ,..à một trong những biến đổi nguy hiểm nhất đặt ra của hiện tượng ô nhiễm môi trường đó là vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu .Bài báo cáo của chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu như là một ví dụ điển hình cho vấn đề ô nhiễm môi trường sống hiện nay và tập trung vào ba phần chính. Thứ nhất, vấn đề biến đổi khí hậu là vấn đề mang tính toàn cầu bởi ba

đặc điểm chính của nó : phạm vi tác động rộng lớn, hậu quả ảnh hưởng đến sự sống còn của nhân loại, và để giải quyết vấn đề này cần có sự hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Thứ hai, một số nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu bao gồm nguyên nhân trực tiếp và sâu xa,chủ yếu là những nguyên nhân do hoạt động của con người gây ra. Thứ ba, một số giải pháp định hướng : các biện pháp tình thế, giảm thiểu và hỗ trợ cho sự biến đổi khí hậu và một vài đánh giá cá nhân về tình hình đi tìm giải pháp hợp lý của cộng đồng thế giới hiện nay. Do hạn chế về mặt thời gian và tính chất rộng lớn của vấn đề, nhóm chưa thể bao quát được toàn vẹn nội dung nên cần được trao đổi và tiếp tục nghiên cứu để sáng tỏ hơn, nhóm chúng em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2022 Nhóm 5 – Khoa Marketing-KDQT- K

3. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

TIÊU CỰC:

Mực nước biển đang dâng lên

Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương.

Các núi băng và sông băng đang co lại. Những lãnh nguyên bao la từng được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao phủ. Lấy một ví dụ, các núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng 37m mỗi năm.

Các bờ biển đang biến mất. Bãi biển ở Miami nằm trong số rất nhiều những khu vực khác trên thế giới đang bị đe dọa bởi nước biển dâng ngày càng cao.

Các nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.

Hình ảnh băng tan tại Nam Cực do ảnh hưởng của Biến đổi khí hậu

Các hệ sinh thái bị phá hủy

Những thay đổi trong điều kiện khí hậu và lượng khí carbon dioxide tăng nhanh chóng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái, nguồn cung cấp nước ngọt, không khí, nhiên liệu, năng lượng sạch, thực phẩm và sức khỏe.

Dưới tác động của nhiệt độ, không khí và băng tan, số lượng các rạn san hô ngày càng có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy, cả hệ sinh thái trên cạn và dưới nước đều đang phải hứng chịu những tác động từ lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, cũng như hiện tượng axit hóa đại dương.

Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai dần biến mất nhưng dân số cứ tiếp tục tăng, đây là những yếu tố gây xung đột và chiến tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ.

Do nhiệt độ trái đất nóng lên và biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung đột điển hình do biến đổi khí hậu là ở Darfur. Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.

Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.

Xung đột ở Darfur [Sudan] xảy ra một phần là do các căng thẳng của biến đổi khí hậu.

Hình ảnh xung đột và chiến tranh do Biến đổi khí hậu [Ảnh minh họa]

Dịch bệnh

Nhiệt độ ngày càng tăng kết hợp với lũ lụt và hạn hán đang trở thành mối đe dọa với sức khỏe dân số toàn cầu. Bởi đây là môi trường sống lý tưởng cho các loài muỗi, những loài ký sinh, chuột và nhiều sinh vật mang bệnh khác phát triển mạnh.

Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới.

Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy.

  • Ví dụ: Biến đổi khí hậu là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện trở lại của một số bệnh truyền nhiễm ở vùng nhiệt đới [sốt rét, sốt Dengue, dịch hạch, dịch tả], xuất hiện một số bệnh truyền nhiễm mới [SARS, cúm A/H5N1, cúm A/H1N1], thúc đẩy quá trình đột biến của virut gây bệnh cúm A/H1N1, H5N nhanh hơn.

Hình ảnh minh họa

châu Phi và khu vực phía đông châu lục đang hứng chịu hạn hán nghiêm trọng khiến người dân thiếu lương thực và nước sạch, trong khi khu vực phía nam châu Phi đối mặt những trận bão nguy hiểm với tần suất ngày càng tăng.

Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.

Hậu quả của các đợt nóng này là nguy cơ cháy rừng, các bệnh tật do nhiệt độ cao gây ra, và tất nhiên là đóng góp vào việc làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.

  • Ví dụ: Các vụ cháy rừng đã biến phần lớn bang New South Wales và Victoria của Australia trở thành vùng đất chết và khiến hàng nghìn người phải di tản. Nhiệt độ cao kỷ lục cùng với thời tiết khô hạn nghiêm trọng kéo dài do Biến đổi khí hậu đã gây ra những biển lửa, khiến quang cảnh nhiều nơi ở Australia trông không khác gì “ Ngày tận thế ”.

Hình ảnh vụ cháy rừng tại hồ Conjola Úc ngày 31/12/

Bão lụt

Số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong vòng 30 năm gần đây, những cơn bão mạnh cấp 4 và cấp 5 đã tăng lên gấp đôi.

Những vùng nước ấm đã làm tăng sức mạnh cho các cơn bão. Chính mức nhiệt cao trên đại dương và trong khí quyển, đẩy tốc độ cơn bão đạt mức kinh hoàng.

Nhiệt độ nước ở các biển và đại dương ấm lên là nhân tố tiếp thêm sức mạnh cho các cơn bão. Những cơn bão khốc liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi.

Khi tính đến các tác động của biến đổi khí hậu đối với tăng trưởng kinh tế, GDP toàn cầu có thể thấp hơn 37% vào năm 2100 so với khi không có tác động của hiện tượng ấm lên toàn cầu. Nếu không tính đến những thiệt hại lâu dài – điều vốn bị bỏ qua trong hầu hết các ước tính - thì GDP sẽ chỉ thấp hơn khoảng 6%, điều này có nghĩa là các tác động lên tăng trưởng có thể làm gia tăng tổn thất kinh tế do biến đổi khí hậu lên gấp 6 lần. Vẫn còn những điều chưa chắc chắn về việc, thiệt hại khí hậu tiếp tục ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn như thế nào và xã hội có thể thích ứng ở mức độ nào để giảm bớt những thiệt hại này – điều đó tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng tới tăng trưởng, con số tổn thất kinh tế trong thế kỷ này có thể lên tới 51% GDP toàn cầu do trái đất nóng lên.

TÍCH CỰC:

1. Ví dụ biến đổi khí hậu sau dịch Covid 19:

Tầng ozone hồi phục nhanh hơn dự kiến 15 năm [ Biện pháp cách ly và giãn cách xã hội không chỉ giúp hạn chế lây lan COVID-19 mà còn gián tiếp giúp giảm đáng kể ô nhiễm tầng ozone.]

NASA phát hiện cách ly - giãn cách xã hội giúp giảm ô nhiễm khí quyển.

Các nhà khoa học nhận ra chiến dịch giãn cách xã hội trong năm vừa qua là một tình huống cơ hội để quan sát điều gì sẽ xảy ra với bầu khí quyển nếu như hoạt động của loài người và lượng chất thải sinh ra từ các hoạt động đó giảm mạnh. Nhờ vào kiến thức có được mà ta có thể đưa ra các giải pháp môi trường hiệu quả hơn.

Tại tầng đối lưu, ozone không chỉ làm giảm chất lượng không khí mà còn đóng vai trò giữ nhiệt và gia tăng sự nóng lên của Trái Đất. Các nhà khoa học cho rằng đại dịch năm rồi đã đem lại nhiều lợi ích cho chất lượng không khí cũng như quá trình biến đổi khí hậu. Khi đại dịch mới xảy ra, chất lượng môi trường dần được cải thiện như không khí sạch hơn, nghe thấy tiếng chim hót thay vì âm thanh ầm ĩ của xe cộ khi các thành phố áp đặt lệnh phong tỏa hay giãn cách xã hội Do tác động của đại dịch đối với du lịch và công nghiệp, nhiều khu vực trên Trái Đất đã giảm ô nhiễm không khí đáng kể, giảm cả biến đổi khí hậu.

  • Tác động tới bầu khí quyển xảy ra trên diện rộng và nhanh chóng đến bất ngờ. Sau cách ly, dữ liệu cho thấy sự giảm thiểu ozone mạnh mẽ toàn cầu, thanh lọc không khí ở độ cao lên đến 10km.

Hình 1. Thay đổi về lượng khí thải CO hóa thạch hàng ngày trên toàn cầu trong₂ đại dịch COVID-19 trong năm 2020 [ nguồn: internet ]

hơn khi không có thuyền vào đầu tháng 3/2020 [phải]. Ảnh: Getty Image.

PHẦN 2 : NGUYÊN NHÂN GÂY BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 1. NGUYÊN NHÂN TRỰC TIẾP :

Lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính bao trùm trái đất và sẽ giữ lại nhiệt của mặt trời. Điều này dẫn đến hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Thế giới đang nóng lên nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử được ghi lại.

Phát điện: Quá trình phát điện và sưởi ấm bằng cách đốt nhiên liệu hóa thạch như than, dầu và khí đốt tự nhiên gây ra một lượng lớn khí thải toàn cầu. Phần lớn điện vẫn được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch, chỉ khoảng một phần tư được sản xuất từ gió, năng lượng mặt trời và các nguồn tái tạo khác.

Sản xuất hàng hóa: Hoạt động sản xuất và công nghiệp phát sinh khí thải, chủ yếu là từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch để tạo ra năng lượng cho mục đích sản xuất những mặt hàng như xi măng, sắt, thép, thiết bị điện tử, nhựa, quần áo và các hàng hóa khác. Khí thải cũng được phát trong khai thác mỏ và các quy trình công nghiệp khác.

Chủ Đề