Mổ nội soi bao lâu thì đi được máy bay

ANTD.VN - Mặc dù mọi người đều cẩn thận về sức khỏe khi đi máy bay do có thể chịu tác động từ áp suất không khí và độ cao nhưng hãy lưu ý khi mắc các bệnh dưới đây thì nên hạn chế tối thiểu việc di chuyển bằng phương tiện này.

Suy tim: Các bệnh nhân suy tim nặng không nên đi máy bay, mà nên đợi cho đến khi được điều trị tốt, suy tim bớt đi hoặc ổn định, trừ khi được bố trí ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp và có phương tiện đảm bảo cung cấp ôxy 100% trong suốt thời gian bay.

Nhồi máu cơ tim: Các bệnh nhân không nên đi máy bay trong vòng 6 tuần đầu tiên sau khi bị nhồi máu cơ tim [giai đoạn hồi phục]. 

Ðau thắt ngực [do thiếu máu cơ tim]: Những người bị đau thắt ngực hoặc đau thắt ngực không ổn định được khuyên không nên đi máy bay. 

Bệnh về tim khác: Mới bị tắc mạch máu [dưới 4 tuần] hoặc có tiền sử dễ bị tắc mạch, mới bị tai biến mạch máu não [dưới 2 tuần], tăng huyết áp nặng.

Bệnh về đường hô hấp: bệnh nhân đang lên cơn hen; ở tình trạng hen nặng; bệnh nhân có nang phổi bẩm sinh; bệnh nhân bị lao đang hoạt động, lây nhiễm hoặc tràn khí màng phổi; khó thở khi nghỉ ngơi bị cấm bay; mức độ thiếu ôxy máu và tăng anhydrid carbonic nặng...

Các bệnh về máu: Những người bị thiếu máu nặng [hồng cầu dưới 3 triệu/ml hoặc huyết sắc tố dưới 80g/l] không nên đi máy bay. Các bệnh nhân mắc bệnh có nguy cơ rất cao gây chảy máu như bệnh hay chảy máu [hemophilia], bệnh ung thư máu không được phép đi trên những chuyến bay thương mại.

Bệnh thần kinh - tâm thần: Tất cả những người mới bị chấn thương sọ não, mới phẫu thuật sọ não hoặc có u não đều không nên đi máy bay. Các bệnh nhân tâm thần hoặc loạn thần, kích động không được phép đi trên những chuyến bay thường kỳ, ngay cả khi có nhân viên y tế đi kèm. 

Phụ nữ mang thai: Phụ nữ mang thai được phép đi máy bay như người bình thường trong vòng 8 tháng đầu, trừ những người có tiền sử dễ bị sinh non hoặc sẩy thai. Khuyến cáo phụ nữ có thai tháng thứ 9 không nên đi máy bay, trường hợp thật cần thiết phải được sự đồng ý của bác sĩ sản khoa. Trẻ sơ sinh 1 tuần tuổi không nên đi trên các chuyến bay có độ cao lớn và thời gian bay dài.

Bệnh nhân sau phẫu thuật: Những trường hợp sau phẫu thuật hoặc sau chấn thương mắt, phải đi trên máy bay có cabin áp lực và liệu pháp ôxy để tránh tổn thương võng mạc do thiếu ôxy và bọt khí trong mắt. Bệnh nhân mới mổ không nên đi máy bay trong 10 ngày sau phẫu thuật bụng và 21 ngày sau phẫu thuật ngực; sau đó chỉ bay khi đã lành vết mổ và không phải dẫn lưu. 

Bước vào thế kỷ 21, nhu cầu giao lưu kinh tế cũng như du lịch ngày càng gia tăng. Ðể tiết kiệm thời gian cũng như đạt hiệu quả cao trong công việc, đường hàng không được coi là sự lựa chọn tốt nhất. Tuy nhiên cũng có những người mắc một số bệnh không được hoặc bị hạn chế sử dụng loại dịch vụ hiện đại này.


  Ảnh minh họa: Internet

Trong thực tế, việc quyết định những người nào không thể hoặc không nên đi máy bay không chỉ phụ thuộc vào loại bệnh, mức độ nặng nhẹ của bệnh mà còn phụ thuộc vào thời gian chuyến bay, độ cao, sự sẵn có các phương tiện y tế, khả năng cung cấp oxy cũng như sự có mặt hay không của các nhân viên y tế trên chuyến bay...

Ðối với các bệnh nhân thì nguy cơ lớn nhất trong thời gian bay là bị thiếu oxy. Tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp, hàng không lại là phương thức vận chuyển bệnh nhân tốt nhất và nhanh nhất, đặc biệt là trong công tác cấp cứu, khi có thảm họa, chiến tranh...

Theo thống kê, phần lớn các chuyến bay cấp cứu là để vận chuyển bệnh nhân bị bệnh tim mạch, đột quỵ, các bệnh thần kinh, tâm thần hoặc đau bụng. Hiện nay, hầu hết các hãng hàng không đều có những chuyên gia y tế nhằm giúp đưa ra quyết định có nên cho phép một người có dấu hiệu bị bệnh hoặc chấn thương được bay trên những chuyến bay của hãng đó không?

Năm 1982, Hiệp hội vận chuyển hàng không Mỹ [ATAA] và Hiệp hội y học Mỹ [AMA] đã thống nhất danh sách các bệnh tật mà người mắc không được phép hoặc nên hạn chế đi trên các chuyến bay thương mại [chứ không phải các chuyến bay y tế]. Danh sách này bao gồm:

1. Các bệnh tim mạch:

- Suy tim mất bù: Các bệnh nhân suy tim nặng không nên đi máy bay, mà nên đợi cho đến khi được điều trị tốt, suy tim bớt đi hoặc ổn định, trừ khi được bố trí ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp và có phương tiện đảm bảo cung cấp oxy 100% trong suốt thời gian bay.

- Các bệnh nhân có bệnh van tim: Nếu bay ở độ cao trên 2.400-2.800m cũng đòi hỏi phải được ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp và cung cấp đủ oxy.

- Nhồi máu cơ tim: Các bệnh nhân không nên đi máy bay trong vòng 6 tuần đầu tiên sau khi bị nhồi máu cơ tim [giai đoạn hồi phục]. Còn những bệnh nhân đã hồi phục và ổn định, tự đi lại được thì có thể đi máy bay như người bình thường.

- Ðau thắt ngực [do thiếu máu cơ tim]: Những người bị đau thắt ngực hoặc đau thắt ngực không ổn định được khuyên nên sử dụng phương tiện vận chuyển khác. Còn những người bị đau thắt ngực nhẹ hoặc vừa thì có thể được phép đi máy bay nhưng tốt nhất nên ở trong các khoang có điều hòa ổn áp và có oxy.

- Những bệnh nhân mắc các bệnh sau đây không được phép đi máy bay: Mới bị tắc mạch máu [dưới 4 tuần] hoặc có tiền sử dễ bị tắc mạch, mới bị tai biến mạch máu não [dưới 2 tuần], tăng huyết áp nặng.

2. Các bệnh của đường hô hấp

- Bệnh của hầu họng: Những bệnh nhân bị viêm xoang dị dứng hoặc viêm xoang nhiễm khuẩn có nguy cơ cao bị viêm tai do áp suất khí cao [viêm tai do khí áp - Aerotitis] khi bay cao. Ðể ngăn ngừa, tốt nhất bệnh nhân cần được điều trị chống viêm nhiễm và giảm phù nề thật tốt trước đó. Ngoài ra nhai kẹo cao su khi ở trên máy bay cũng có tác dụng tốt.

- Hen phế quản: Trừ những bệnh nhân hen nhẹ, còn những bệnh nhân bị hen nặng hoặc hen ác tính sẽ không được phép đi máy bay.

- Lao phổi: Nghiêm cấm đi máy bay đối với tất cả những bệnh nhân lao phổi đang tiến triển, có nguy cơ lây nhiễm cho người xung quanh hoặc có biến chứng tràn khí màng phổi.

- Những người có các bệnh hô hấp sau không nên đi máy bay: Có các nang [hay kén khí] bẩm sinh trong phổi do nguy cơ gây vỡ các nang này, đang bị khó thở tím tái hoặc đang bị viêm phổi.

- Các trường hợp có bệnh hô hấp khác cần được đo chức năng hô hấp để đánh giá và quyết định cho từng trường hợp.

3. Các bệnh về máu:

- Những người bị thiếu máu nặng [hồng cầu dưới 3 triệu/ml hoặc huyết sắc tố dưới 80g/l] không nên đi máy bay.

- Các bệnh nhân mắc bệnh có nguy cơ rất cao gây chảy máu như bệnh hay chảy máu [hemophilia], bệnh ung thư máu không được phép đi trên những chuyến bay thương mại.

4. Các bệnh nhân sau phẫu thuật:

- Những người sau khi được phẫu thuật vùng bụng ít nhất 10 ngày hoặc sau phẫu thuật lồng ngực ít nhất 20 ngày, vết mổ đã liền hoàn toàn và không còn bất cứ một ống dẫn lưu nào mới được phép đi máy bay.

- Các bệnh nhân bị chấn thương vùng mắt hoặc mới phẫu thuật mắt cần được ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp và oxy hỗ trợ để tránh làm võng mạc bị tổn thương do thiếu oxy hoặc do tăng áp lực trong hốc mắt.

- Những người mới được phẫu thuật tai giữa cũng không nên đi máy bay.

- Những người bị thoát vị bẹn lớn nếu không có băng đai bụng thì không nên đi trên các chuyến bay không có điều hòa ổn áp, vì có nguy cơ rất cao bị thoát vị nghẹt gây hoại tử ruột.

5. Các bệnh thần kinh - tâm thần:

- Bệnh nhân động kinh nếu được điều trị tốt, không còn cơn co giật thì được phép đi trên những chuyến bay ở độ cao không quá 6.800m.

- Các bệnh nhân tâm thần hoặc loạn thần, kích động không được phép đi trên những chuyến bay thường kỳ, ngay cả khi có nhân viên y tế đi kèm. Với những người quá lo lắng, cần được cho uống thuốc ngủ hoặc thuốc an thần trước và trong thời gian trên máy bay.

- Tất cả những người mới bị chấn thương sọ não, mới phẫu thuật sọ não hoặc có u não đều không nên đi máy bay.

6. Các phụ nữ có thai:

Ðược phép đi máy bay như người bình thường trong vòng 8 tháng đầu, trừ những người có tiền sử hay bị sinh non hoặc sẩy thai. Khuyến cáo các phụ nữ có thai tháng thứ 9 không nên đi máy bay, trường hợp thật cần thiết phải được sự đồng ý của bác sĩ sản khoa. Trẻ sơ sinh 1 tuần tuổi không nên đi trên các chuyến bay có độ cao lớn và thời gian bay dài.

7. Không nên vận chuyển trên những chuyến bay không phải là chuyến bay y tế:

Các bệnh nhân phải truyền dịch đường tĩnh mạch liên tục hoặc cần có các phương tiện, máy móc hỗ trợ đặc biệt để duy trì các chức năng sống.

Nhìn chung, những chuyến bay kéo dài làm tăng nguy cơ bị thuyên tắc các tĩnh mạch sâu. Các biện pháp phòng ngừa chủ động đơn giản bao gồm: Bỏ thuốc lá và không uống rượu, vận động 2 chân tại chỗ hoặc đi bộ ngắn trong khoang hành khách. Một số người cần uống thuốc chống đông máu.

Trong tất cả các trường hợp, nếu nghi ngờ mình có bệnh và có thể bị ảnh hưởng khi đi máy bay [nhất là những chuyến bay xa, kéo dài] thì nên tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc các chuyên gia y tế hàng không. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ trên cả lĩnh vực hàng không và y học, những bệnh nhân mắc các bệnh trên hy vọng sẽ có nhiều cơ hội được di chuyển bằng máy bay như những người bình thường.


Theo Thạc sĩ NGUYỄN QUANG BẢY [Ykhoa.net]

Những trường hợp không nên đi máy bay:

1. Mắc các bệnh tim mạch:

- Suy tim mất bù: người bị suy tim nặng không nên đi lại bằng máy bay. Cần đợi cho đến khi được điều trị tốt và ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp, có phương tiện đảm bảo cung cấp oxy 100% trong suốt thời gian bay.

- Bệnh van tim: nếu bay ở độ cao trên 2.400-2.800 m, người bệnh cần ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp và cung cấp đủ oxy.

- Nhồi máu cơ tim: bệnh nhân không nên đi máy bay trong 6 tuần đầu tiên sau khi bị nhồi máu cơ tim. 

- Đau thắt ngực [do thiếu máu cơ tim]: người bị đau thắt ngực hoặc đau thắt ngực không ổn định cần sử dụng phương tiện vận chuyển khác. Người bị đau thắt ngực nhẹ hoặc vừa có thể đi máy bay, song nên ở trong các khoang có điều hòa ổn áp và có oxy.

- Bị tắc mạch máu dưới 4 tuần, có tiền sử dễ bị tắc mạch, bị tai biến mạch máu não dưới 2 tuần, tăng huyết áp nặng.

Quảng cáo

2. Các bệnh của đường hô hấp:

- Bệnh của hầu họng: người bị viêm xoang dị ứng hoặc viêm xoang nhiễm khuẩn có nguy cơ bị viêm tai do áp suất khí cao [viêm tai do khí áp - Aerotitis] khi bay cao. Để phòng ngừa, bệnh nhân cần được điều trị chống viêm nhiễm và giảm phù nề thật tốt trước đó. Ngoài ra, nhai kẹo cao su khi đang bay cũng có tác dụng tốt.

- Hen phế quản: trừ những bệnh nhân hen nhẹ, còn những người bị nặng hoặc ác tính không được phép đi máy bay.

- Lao phổi: nghiêm cấm tất cả bệnh nhân lao phổi đang tiến triển, có nguy cơ lây nhiễm cho người xung quanh hoặc có biến chứng tràn khí màng phổi... di chuyển bằng máy bay.

- Có các nang [hay kén khí] bẩm sinh trong phổi, đang bị khó thở tím tái hoặc viêm phổi. Đi máy bay có thể làm tăng nguy cơ vỡ nang.

3. Các bệnh về máu:

Quảng cáo

- Thiếu máu nặng: hồng cầu dưới 3 triệu/ml hoặc huyết sắc tố dưới 80g/l.

- Bệnh hay chảy máu, ung thư máu.

4. Các bệnh nhân sau phẫu thuật:

- Sau phẫu thuật vùng bụng dưới 10 ngày hoặc phẫu thuật lồng ngực dưới 20 ngày. Chỉ khi vết mổ đã liền hoàn toàn và không còn bất cứ một ống dẫn lưu nào mới được phép đi máy bay.

- Bị chấn thương vùng mắt hoặc vừa phẫu thuật mắt. Nếu đi, cần ngồi ở khoang có điều hòa ổn áp và oxy hỗ trợ để tránh làm võng mạc bị tổn thương do thiếu oxy hoặc do tăng áp lực trong hốc mắt.

- Vừa phẫu thuật tai giữa.

- Bị thoát vị bẹn lớn: nếu không có băng đai bụng thì không nên đi trên các chuyến bay không có điều hòa ổn áp vì nguy cơ bị thoát vị nghẹt gây hoại tử ruột rất cao.

5. Các bệnh thần kinh - tâm thần:

- Động kinh: bệnh nhân đã được điều trị cắt cơn có thể đi trên những chuyến bay ở độ cao không quá 6.800 m.

- Tâm thần hoặc loạn thần và kích động.

- Vừa bị chấn thương sọ não, mới phẫu thuật sọ não hoặc có u não.

6. Phụ nữ có thai: được phép đi máy bay như bình thường trong vòng 8 tháng đầu, trừ những người có tiền sử bị sinh non hoặc sẩy thai. Đến tháng thứ 9, thai phụ không nên đi máy bay. Trẻ sơ sinh 1 tuần tuổi không nên đi.

Nhìn chung, những chuyến bay kéo dài làm tăng nguy cơ bị thuyên tắc các tĩnh mạch sâu. Một số biện pháp phòng ngừa chủ động đơn giản như bỏ thuốc lá, rượu, vận động 2 chân tại chỗ hoặc đi bộ ngắn trong khoang hành khách. Một số người cần uống thuốc chống đông máu.

Thạc sĩ Nguyễn Quang Bảy, Sức Khỏe & Đời Sống

Video liên quan

Chủ Đề