Nghiên cứu về chất lượng giấc ngủ

ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”

NĂM 2018-

CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ: Thần kinh học, Khoa học Y, dược

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ…………………………………………………………………

  • DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ…………………………………………………………………
  • DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT……………………………………………………………………………
  • Chương 1: GIỚI THIỆU…………………………………………………………………………………
    • 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………………………..
    • 1. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………………………………………
  • TÀI……………………………………………………………………………………………………………… Chương 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC ĐỀ
    • 2. Nghiên cứu trong nước…………………………………………………………………………
    • 2. Nghiên cứu ngoài nước…………………………………………………………………………
  • Chương 3: CƠ SỞ LÝ THUYẾT……………………………………………………………………
    • 3. Giấc ngủ……………………………………………………………………………………………..
      • 3.1. Khái niệm ………………………………………………………………………………………
      • 3.1. Các giai đoạn của giấc ngủ ………………………………………………………………
      • 3.1. Chất lượng giấc ngủ ………………………………………………………………………..
    • 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ của thanh niên………………………………..
      • 3.2. Tuổi ……………………………………………………………………………………………….
      • 3.2. Giới tính
      • 3.2. Ca đêm …………………………………………………………………………………………..
      • 3.2. Sử dụng thiết bị điện tử ……………………………………………………………………
      • 3.2. Chất kích thích ……………………………………………………………………………….
      • 3.2. Chế độ ăn ……………………………………………………………………………………….
      • 3.2. Vận động ……………………………………………………………………………………….
      • 3.2. Ngủ trưa ………………………………………………………………………………………..
      • 3.2. Stress ……………………………………………………………………………………………..
      • 3.2. Môi trường ngủ …………………………………………………………………………….
  • Chương 4: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………………….
    • 4. Mẫu nghiên cứu…………………………………………………………………………………..
      • 4.1. Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………………………………..
      • 4.1. Phương pháp chọn mẫu …………………………………………………………………..
    • 4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………………..
    • 4. Mô hình nghiên cứu……………………………………………………………………………..
      • 4.3. Mô hình nghiên cứu ………………………………………………………………………..
      • 4.3. Thước đo biến số …………………………………………………………………………….
  • Bảng 1. Thói quen ngủ của người Mỹ ở các lứa tuổi……………………………………….. DANH MỤC BẢNG
  • Bảng 2. Mô tả các biến được sử dụng trong mô hình hồi quy…………………………..
  • Bảng 3. Thống kê mô tả các biến trong mô hình……………………………………………..
  • Bảng 4. Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu…………………………………………………
  • Bảng 5. Mức độ phổ biến của các loại thiết bị điện tử……………………………………..
  • Bảng 6. Thời gian dành cho thiết bị điện tử…………………………………………………….
  • Bảng 7. Loại thực phẩm thanh niên ăn trước khi đi ngủ………………………………….
  • Bảng 8. Kết quả hồi quy………………………………………………………………………………..
  • Biểu đồ 1. Tỷ lệ phiếu hợp lệ trên tổng số phiếu phát ra…………………………………. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
  • Biểu đồ 2. Giới tính……………………………………………………………………………………….
  • Biểu đồ 3. Tuổi………………………………………………………………………………………………
  • Biểu đồ 4. Chất lượng giấc ngủ………………………………………………………………………
  • Biểu đồ 5. Ca tối/Ca đêm……………………………………………………………………………….
  • Biểu đồ 6. Thời gian sử dụng thiết bị điện tử…………………………………………………..
  • Biểu đồ 7. Mức độ thường xuyên vận động của thanh niên………………………………
  • Biểu đồ 8. Ngủ trưa……………………………………………………………………………………….
  • Biểu đồ 9. Mức độ Stress……………………………………………………………………………….
  • Biểu đồ 10. Ánh sáng…………………………………………………………………………………….
  • Biểu đồ 11. Tiếng ồn………………………………………………………………………………………
  • Biểu đồ 12. Chất lượng chỗ ngủ……………………………………………………………………..
  • Sơ đồ 1. Các giai đoạn của giấc ngủ………………………………………………………………. DANH MỤC SƠ ĐỒ
  • Sơ đồ 3. Các bước phát triển câu hỏi………………………………………………………………

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT……………………………………………………………………………

BMI Body Mass Index Chỉ số khối khung hình CEO Chief Executive Officer Tổng giám đốc quản lý và điều hành CI Confidence Interval Khoảng đáng tin cậy DASS Depression Anxiety Stress Scale Thang đo trầm cảm, lo âu, stress K10 Kessler Psychological Distress ScaleThang đo rối loạn tâm ý Kessler

LMP Linear Probability Model Mô hình xác suất tuyến tính MS Microsoft Công ty phần mềm Microsoft N/A No answer Không có câu trả lời NREM non-Rapid Eye Movement Giấc ngủ chuyển động mắt không nhanh NSF National Sleep Foundation Tổ chức Giấc ngủ Hoa Kỳ OECD Organization for Co-operation and

Development

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tếOLS Ordinary Least Squares Phương pháp bình phương nhỏ nhất OR Odds Ratio Hệ số Odds PS3, PS4 Play Station 3, Play Station 4 Máy chơi game mái ấm gia đình 3, 4 PSQI Pittsburgh Sleep Quality Index Chỉ báo Chất lượng Giấc ngủ Pittsburgh RAND Research and Development Một tổ chức triển khai nghiên cứu và tiến hành của Mỹ REM Rapid Eye Movement Giấc ngủ hoạt động mắt nhanh SAS-SV Smartphone Addiction Scale – Short VersionThang đo nghiện điện thoại cảm ứng mưu trí phiên bản rút gọn SD Standard Deviation Độ lệch chuẩn SPSS Statistical Package for the Social SciencesPhần mềm thống kêtrung học cơ sở Trung học cơ sở THPT Trung học đại trà phổ thông TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh TV Television Ti vi UNLV University of Nevada, Las Vegas Trường Đại học Nevada, Las Vegas USD United State Dollar Đô la Mỹ

Chương 1

GIỚI THIỆU

Theo TS. Charles A. Czeisler ( Giám đốc Viện Y học Giấc ngủ, Trường Y khoa Harvard ) : “ Những người làm y khoa, đặc biệt quan trọng là những bác sĩ đang học việc, tiếp tục phải thao tác liên tục 30 tiếng đồng hồ đeo tay mỗi ca, 2 lần / tuần trong suốt 3-7 năm. Khi chúng tôi triển khai tìm hiểu 2700 thực tập sinh trên khắp nước Mỹ, cứ 5 người thì có 1 người nói rằng vì stress nên đã mắc lỗi gây tổn thương cho bệnh nhân, và cứ 20 người thì có 1 người nói rằng vì stress nên đã mắc lỗi gây ra cái chết cho bệnh nhân. Không chỉ bệnh nhân mà những bác sỹ này cũng đang tự gây ra rủi ro đáng tiếc cho chính mình. Khi lái xe về nhà sau những ca thao tác lê dài suốt 24 tiếng đồng hồ đeo tay hoặc hơn, rủi ro đáng tiếc tai nạn thương tâm giao thông vận tải tăng lên đến 168 %. Cứ 5 vụ tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải xảy ra thì có 1 vụ nguyên do là do tài xế quá căng thẳng mệt mỏi. Mỗi giờ đồng hồ đeo tay trôi qua sẽ có ai đó tử trận vì tai nạn đáng tiếc giao thông vận tải do lái xe trong thực trạng buồn ngủ. Đây thực sự là thảm kịch vương quốc khi việc lái xe trong trạng thái buồn ngủ gây ra 60 vụ chấn thương nghiêm trọng trên những xa lộ ”. Hiện nay, rối loạn giấc ngủ đã trở thành một yếu tố nghiêm trọng trên toàn thế giới, đặc biệt quan trọng so với những người trẻ tuổi do áp lực đè nén học tập, việc làm, hoặc lạm dụng thiết bị điện tử, .. ì thế nó vẫn thường được biết đến với cái tên “ khủng hoảng cục bộ giấc ngủ ”. Điển hình tại Nhật Bản, theo truyền thống cuội nguồn, học sinh Nhật Bản ôn thi tuyển sinh thường được khuyến khích rằng “ ngủ 4 tiếng / đêm thì đậu còn ngủ 5 tiếng / đêm thì rớt ”. Nói cách khác, con người trong xã hội Nhật Bản từ rất sớm đã được truyền tải thông điệp rằng ngủ đủ giấc không có giá trị bằng việc ngủ ít và ngủ là một “ loại sản phẩm ” hoàn toàn có thể và nên được đổi bằng một thứ có giá trị hơn. Theo thống kê của nhà nước nước này, hơn 71 % phái mạnh ngủ chưa tới 7 tiếng / đêm. Còn theo một nghiên cứu mới gần đây của công ty Polar Electro ( Phần Lan ), cả phái mạnh và phụ nữ Nhật Bản ngủ trung bình chỉ 6 tiếng 35 phút / đêm, ít hơn 45 phút so với mặt phẳng chung của quốc tế, và ít hơn Phần Lan gần một tiếng đồng hồ đeo tay, nơi người dân ngủ nhiều nhất quốc tế [ CITATION Văn18 \ l 2057 ]. Tại Nước Hàn, cứ 4 học viên trung học thì có 1 học viên ngủ ít hơn 6 giờ đồng hồ đeo tay / ngày, nguyên do là do hầu hết học viên dành thời hạn đêm hôm để học tập, lên mạng và chơi điện tử – điều ảnh hưởng tác động rất lớn đến sức khỏe thể chất và sự tăng trưởng của những em. [ CITATION Thô17 \ l 2057 ]. Ở Hoa Kỳ, người ta ước tính rằng có khoảng chừng 30 % người trưởng thành và 66 % thiếu niên bị mất ngủ liên tục [ CITATION Cla15 \ l 2057 ]. Dưới đây là 1 số ít lời san sẻ của những sinh viên ĐH tại Mỹ [ CITATION Ngu16 \ l 2057 ] :

  • “Là một sinh viên đại học, chúng tôi chỉ được chọn 2 trong 3 điều sau đây: ngủ đủ giấc, đạt điểm cao và có một đời sống xã hội phong phú. Theo quan điểm của tôi, cân bằng 3 yếu tố đó là một việc vô cùng khó khăn. Khi đến mùa luyện thi thì tôi phải thức suốt đêm. Khi muốn vui chơi với bạn bè thì tôi phải hy sinh giấc ngủ của mình” –

    Michelle Peffen, sinh viên của Boston College chia sẻ.

  • “Thức dậy lúc 6 giờ sáng. Tập gym lúc 07:00. Đi làm từ 09:00-14:00. Làm bài tập về nhà từ 14:00-17:00. Lên lớp từ 18:00-20:00. Nấu ăn và ăn tối lúc 21:00. Lại tiếp tục làm bài hoặc cố gắng cập nhật những gì đang diễn ra xung quanh cho đến nửa đêm. Cuối cùng thì, 1 giờ sáng mình mới đi ngủ. Như vậy là mình đang đấu tranh để cân bằng cuộc sống giữa vai trò một sinh viên đại học, một trợ lý, một cô bạn gái và chủ

    của một chú cún nữa.” – Tara Wong của UNLV cho biết.

  • “Vô số sinh viên thừa nhận rằng việc ngủ nghỉ mang đến cho họ cảm giác áy náy giống như đang làm sai điều gì đó, một dấu hiệu của sự thụt lùi và bất lực. Ở đại học ‘Nghỉ ngơi’ là từ khóa bị kỳ thị nhiều nhất.” – Riley Griffin của Đại học Duke cho

    biết.

  • “Các bạn sinh viên có một niềm tin bất diệt và dai dẳng rằng: ngủ sớm là không cool, sinh viên là phải thiếu ngủ. Việc thiếu ngủ đang dần trở thành một chuẩn mực vô hình trong cộng đồng sinh viên. Thói quen xấu đó dẫn đến việc ban ngày lờ đờ trong lớp, ban đêm thức khuya học bài, chat chit hoăc đi chơi – như vậy là không lành mạnh tí nào. Thật kỳ lạ khi lối sống thiếu ngủ như vậy không chỉ trở nên phổ biến mà còn trở

    thành một hành động được yêu thích.” – Jessica Beeli ở San Diego State chia sẻ.

  • “Tôi thậm chí đã gặp phải những sinh viên nghĩ rằng ngủ từ 7 đến 9 tiếng một đêm đồng nghĩa với việc lười biếng. Các bạn cũng đánh đồng với việc một người thành công trong cuộc sống thường sẽ là một người thiếu ngủ và lúc nào trông cũng căng thẳng” – Alex Beasley của Đại học Belmont cho biết. Tại Việt Nam, các con số thống kê gần đây cũng cho thấy ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên và những người trẻ tuổi bị rối loạn giấc ngủ. Vào đầu năm 2018, một nhóm học sinh phổ thông ở Sài Gòn tự làm khảo sát trên hàng nghìn bạn cùng lứa và phát hiện ra rằng 81,8% số bạn được hỏi ngủ dưới 7 tiếng mỗi ngày. Nguyên nhân chính là do áp lực học hành [CITATION Tùn18 \l 2057 ]. Một nghiên cứu trên 1150 học sinh THPT và sinh viên tại thành phố Huế cho thấy 57,3% học sinh có tình trạng chất lượng giấc ngủ không tốt và tỷ lệ này ở nhóm sinh viên là 51,6% [CITATION Ngu17 \l 2057 ]. Một nghiên cứu tại Đại học Y Dược Huế trên 577 sinh viên hệ chính quy cho thấy, số giờ ngủ trung bình của sinh viên là 6,1 giờ (SD=1,05), tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ kém là 49,4% [CITATION Ngu171 \l 2057 ]. Tuổi trẻ là giai đoạn dồi dào nhất về sức khỏe, lẽ ra điều đó phải trở thành lợi thế vượt trội hơn so với bất kỳ độ tuổi nào khác. Điều đáng tiếc là, do chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của giấc ngủ, sức khỏe của thanh niên trên thế giới ngày nay bị hủy hoại nghiêm trọng, dẫn đến suy giảm thành tích học tập và năng suất lao động, gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế. Theo một nghiên cứu quy mô lớn của tổ chức RAND Europe tại các quốc gia OECD [CITATION Haf16 \l 2057 ], Mỹ là nước chịu

    thiệt hại nhiều nhất, từ 280 đến 411 tỷ USD, tương đương 2,28% GDP chỉ vì thiếu

Chương 2

TÀI……………………………………………………………………………………………………………… Chương 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC ĐỀ

2. Nghiên cứu trong nước

2.1. “Sinh viên và số giờ ngủ trung bình trong một ngày” [CITATION LêA09 \l
2057 ]

  • Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố đến số giờ ngủ trung bình một ngày của sinh viên, từ đó rút ra kết luận và có những lời khuyên hữu ích cho

    các bạn sinh viên.

  • Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát tại 7 trường đại học trên địa bàn TP, thu về 260 phiếu hợp lệ và phân tích dữ liệu với sự trợ giúp của các phần mềm Eviews 5,

    MS Word, MS Excel, MS Access.

  • Kết quả nghiên cứu: Thời gian học trong ngày, điểm trung bình học kỳ trước, ngành học, mức độ sử dụng các phương tiện giải trí và vấn đề trong chuyện tình cảm

    có ảnh hưởng tới số giờ ngủ trung bình một ngày của sinh viên.

2.1. “Chất lượng giấc ngủ của sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược
Huế năm 2015” [ CITATION Ngu171 \l 2057 ]

  • Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá chất lượng giấc ngủ và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến rối loạn giấc ngủ theo thang điểm Pittsburgh ở sinh viên chính quy thuộc Đại

    học Y dược Huế.

  • Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 577 sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế. Dữ liệu được thu thập bằng cách phỏng vấn dựa vào bộ câu hỏi và số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 20. Chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI) đã được sử dụng để kiểm tra chất lượng giấc ngủ (PSQI>5: chất lượng giấc ngủ kém). Ngoài ra còn có thang đánh giá trầm cảm – lo âu – stress (DASS21), các chỉ số sức khỏe (hút thuốc, lối sống ít vận động, tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe thể chất) đã được thực hiện để tìm hiểu các yếu tố liên quan

    đến chất lượng giấc ngủ.

  • Kết quả nghiên cứu: Giờ ngủ trung bình của sinh viên là 6,1 giờ (SD = 1,05). Tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ kém là 49,4% (n = 577). Có mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với một số yếu tố: căng thẳng, trầm cảm, lo âu, không gian ngủ,

    tiếng ồn, thói quen ngủ trưa, căng thẳng học tập và sự kiện cuộc sống.

2.1. “Mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lý ở học sinh trung học phổ thông và sinh viên” [ CITATION

Ngu17 \l 2057 ]

  • Mô tả thực trạng sử dụng điện thoại ở đối tượng học sinh Trung học phổ thông
    và sinh viên đại học tại thành phố Huế
  • Xác định mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các
    triệu chứng về rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lý ở đối tượng nghiên cứu.
  • Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1. học sinh Trung học phổ thông và sinh viên tại thành phố Huế. Phỏng vấn qua bộ câu hỏi sử dụng thang đo SAS-SV đánh giá nghiện sử dụng điện thoại, thang đo K10 đánh

    giá rối loạn tâm lý và thang đo PSQI đánh giá chất lượng giấc ngủ.

  • Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh của học sinh và sinh viên là 78,0%. Tỷ lệ nghiện sử dụng điện thoại thông minh ở học sinh là 49,1% và tỷ lệ này ở sinh viên là 43,7%. Có 57,3% học sinh có tình trạng chất lượng giấc ngủ không tốt và tỷ lệ này ở nhóm sinh viên là 51,6%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng nghiện sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối

    loạn tâm lý (p<0,05).<>

2.1. “Thực trạng sử dụng mạng xã hội, chất lượng giấc ngủ của sinh viên trường Đại học Y tế công cộng và một số yếu tố liên quan năm 2014” [CITATION LêS14 \l

2057 ]


Mục tiêu nghiên cứu:

  • Mô tả thực trạng sử dụng mạng xã hội
  • Mô tả thực trạng chất lượng giấc ngủ
  • Xác định một số yếu tố liên quan của sử dụng mạng xã hội đến chất lượng
    giấc ngủ.
  • Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 432 sinh viên Đại học Y tế Công cộng, sử dụng bộ câu hỏi tự điền dựa trên thang đo Tình trạng

    nghiện Internet của K và chỉ báo chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI).

  • Kết quả nghiên cứu: 99,1% sinh viên sử dụng mạng xã hội, trong đó 60% thường xuyên sử dụng và khó kiểm soát việc sử dụng. Tỷ lệ sinh viên có chất lượng giấc ngủ không tốt là 60%. Có mối liên quan đơn biến có ý nghĩa thống kê giữa sử dụng mạng xã hội với chất lượng giấc ngủ (p=0,003), tuy nhiên, mối liên quan này không xuất hiện khi phân tích trong mô hình hồi quy đa biến logistic (p>0,05). Một số yếu tố có liên quan đến chất lượng giấc ngủ của sinh viên là: thức khuya sau 23h, áp lực học tập

    (p<0,05).>

quan đến thời hạn ngủ ngắn đêm hôm và mất ngủ được kiểm tra bằng cách sử dụng nghiên cứu và phân tích phát hiện tương tác tự động hóa χ 2 và quy mô nghiên cứu và phân tích hồi quy logistic .

  • Kết quả nghiên cứu: Tuổi càng lớn, trầm cảm, đang học năm thứ ba, uống cà phê vào buổi tối và sử dụng Internet có liên quan đáng kể đến thời gian ngủ ngắn ban đêm ở thanh thiếu niên. Hơn nữa, trầm cảm, mối quan hệ học đường thấp, xung đột gia đình cao, kết nối thấp với nhóm đồng đẳng và sử dụng Internet có liên quan đến chứng

    mất ngủ ở thanh thiếu niên.

2.2. “The Influence of Lifestyle and Health Status Factors on Sleep Loss Among
the Japanese General Population” [CITATION Ohi01 \l 2057 ]

  • Mục tiêu nghiên cứu: Kiểm tra mối quan hệ giữa lối sống, tình trạng sức khỏe với
    chứng mất ngủ.
  • Phương pháp nghiên cứu: Một cuộc điều tra cắt ngang được thực hiện bởi Bộ Y tế
    và Phúc lợi Nhật Bản trên khoảng 30 đối tượng được lựa chọn từ dân số Nhật Bản.
  • Kết quả nghiên cứu: Khoảng 28% dân số nói chung ngủ ít hơn 6 giờ mỗi đêm và khoảng 65% ngủ ít hơn 7 giờ. Tuy nhiên, khoảng 80% dân số cho biết ngủ đủ giấc. Phân tích hồi quy đa biến logistic cho thấy rằng phụ nữ, độ tuổi trẻ hơn, sống trong môi trường đô thị, thất nghiệp và lối sống không lành mạnh (ví dụ, ít vận động,

    tình trạng sức khỏe kém và thói quen ăn uống không đều) có liên quan đến mất ngủ.

2.2. “Sleep patterns in college students: Gender and grade differences”
[CITATION Tsa04 \l 2057 ]

  • Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích ảnh hưởng của giới tính và năm học lên giấc ngủ
    của sinh viên.
  • Phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 237 sinh viên tuổi từ 18-24. Mỗi
    sinh viên phải hoàn thành một nhật ký giấc ngủ 7 ngày.
  • Kết quả nghiên cứu: Sự khác biệt về giới đã được tìm thấy ở một số biến số giấc ngủ và những yếu tố này hầu như không phụ thuộc vào các ngày trong tuần hay cuối tuần. Các sinh viên nữ đi ngủ và dậy sớm hơn, có độ trễ giấc ngủ dài hơn, thức dậy nhiều lần trong đêm hơn và chất lượng giấc ngủ kém hơn so với nam giới. Sự khác biệt về giới cũng được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất lượng giấc ngủ và các biến số giấc ngủ khác. Mối tương quan giữa chất lượng giấc ngủ với thời gian ngủ dậy, thời gian trên giường và hiệu quả giấc ngủ mạnh hơn ở nam giới so với nữ giới. Ngược lại, sự khác biệt năm học chủ yếu phụ thuộc vào ngày trong tuần/cuối tuần. Các sinh viên năm nhất dậy sớm hơn và có thời gian ngủ ngắn hơn so với các sinh viên khác chỉ vào các ngày trong tuần. Sinh viên năm cuối có độ trễ giấc ngủ dài nhất chỉ vào các

    ngày trong tuần.

2.2. “Environmental noise, sleep and health” [ CITATION Muz07 \l 2057 ] Đây là một bài đánh giá tường thuật lại chi tiết các nghiên cứu trước đó về ảnh hưởng của tiếng ồn lên giấc ngủ. Bài đánh giá này đã chỉ ra những ảnh hưởng trực tiếp

và ảnh hưởng gián tiếp của tiếng ồn làm gián đoạn giấc ngủ:

  • Ảnh hưởng trực tiếp:
  • Trì hoãn sự khởi phát giấc ngủ (sự chuyển từ trạng thái tỉnh táo sang giấc
    ngủ), thức giấc sớm hơn bình thường
  • Làm thay đổi giai đoạn hoặc cấu trúc giấc ngủ
  • Thức giấc và chuyển động cơ thể
  • Phản ứng của hoocmon cơ thể với tiếng ồn
  • Ảnh hưởng gián tiếp:
  • Có thể tự đo lường được chất lượng giấc ngủ
  • Suy giảm hiệu suất làm việc
  • Thay đổi hành vi ban ngày
    Bài đánh giá cũng đề xuất các nghiên cứu trong tương lai cần tập trung vào:
  • Ảnh hưởng lâu dài của tiếng ồn ban đêm lên các quần thể khác nhau
  • Nghiên cứu các nhóm có nguy cơ cao bị ảnh hưởng (người già, trẻ em, người
    nhạy cảm, người mất ngủ, rối loạn giấc ngủ, người làm việc ca đêm,…)
  • Kết hợp ảnh hưởng của tiếng ồn với các yếu tố khác lên giấc ngủ

2.2. “Why sleep matters – the economic costs of insufficient sleep” [ CITATION
Haf16 \l 2057 ]

  • Mục tiêu nghiên cứu:
  • Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian ngủ trung bình một ngày
  • Nghiên cứu mối quan hệ giữa việc thiếu ngủ với năng suất lao động và tỷ lệ tử
    vong tại nơi làm việc
  • Lượng hóa chi phí kinh tế của việc thiếu ngủ ở các quốc gia thuộc Tổ chức
    Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
  • Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 62 người lao động Anh, sử dụng mô hình xác suất tuyến tính (LMP) và phương pháp bình phương nhỏ

    nhất (OLS) để ước lượng ảnh hưởng của các yếu tố đến thời gian ngủ.

  • Kết quả nghiên cứu:
  • Các yếu tố cá nhân và nơi làm việc có ảnh hưởng đến thời gian ngủ, bao gồm: chỉ số khối cơ thể (BMI), hút thuốc, sử dụng nước ngọt, ít vận động, căng thẳng và lo âu, lo lắng về tài chính, giới tính, tình trạng hôn nhân, áp lực thời gian tại nơi làm việc,

    ca làm việc bất thường và mất nhiều thời gian di chuyển đến nơi làm việc.

  • Thiếu ngủ làm tăng tỷ lệ tử vong lên 13%

hơn 1,5 đến 2 lần so với những người ngủ ít hơn. 33 % thanh thiếu niên báo cáo giải trình ngủ gật trong giờ học. Tiêu thụ caffeine có xu thế cao hơn 76 % ở những người ngủ gật. Chỉ số đa nhiệm quy đổi log có tương quan đáng kể đến giấc ngủ khi đi học và khó ngủ vào những tuần .

2.2. “The Cost of Poor Sleep: Workplace Productivity Loss and Associated Costs” [
CITATION Ros10 \l 2057 ]

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tác động của rối loạn giấc ngủ đến hiệu suất/năng
suất làm việc.

  • Phương pháp nghiên cứu: Nhân viên (N = 4) tại bốn tập đoàn của Mỹ đã được khảo sát về mô hình giấc ngủ và hoàn thành “Bảng câu hỏi Giới hạn Công việc” (Work Limitations Questionnaire). Những người được hỏi chia thành bốn nhóm: mất ngủ, hội chứng ngủ không đủ giấc, có nguy cơ, và ngủ ngon. Chi phí lao động do thay đổi năng suất được đo lường thông qua “Bảng câu hỏi Giới hạn Công việc”. Hiệu suất/năng suất, sự an toàn và các biện pháp xử lý được so sánh bằng cách sử dụng mô hình phân

    tích phương sai một yếu tố.

  • Kết quả nghiên cứu: So với các nhóm có nguy cơ và ngủ ngon, các nhóm mắc chứng mất ngủ và ngủ không đủ giấc có năng suất, hiệu suất và sự an toàn kém hơn đáng kể. Nhóm mất ngủ có tỷ lệ sử dụng thuốc ngủ cao nhất. Các nhóm khác có nhiều khả năng sử dụng phương pháp điều trị không dùng thuốc. Sự suy giảm năng suất liên quan đến mệt mỏi ước tính gây tốn kém $1967/nhân viên hàng năm. Như vậy, so sánh với các nghiên cứu trong nước, có rất nhiều nghiên cứu ngoài nước đã được tiến hành bài bản và cách tiếp cận cũng vô cùng đa dạng mà trên đây nhóm tác giả mới chỉ nêu ra một số nghiên cứu tiêu biểu. Dù một vài nghiên cứu ngoài nước có hạn chế là quy mô mẫu còn nhỏ, các kết quả thu được còn có sự khác biệt, nhưng nhìn chung đã khỏa lấp được hầu hết khoảng trống nghiên cứu trong lĩnh vực giấc ngủ. Kho tàng nghiên cứu trong nước vẫn còn có tiềm năng khai thác, cộng với sự kế thừa các nghiên cứu uy tín trên thế giới, nhóm tác giả cho rằng việc đóng góp thêm cho nghiên cứu trong nước là rất cần thiết. Qua quá trình tìm hiểu, một số hạn chế của

    các nghiên cứu đó là:

  • Khoảng tuổi của đối tượng nghiên cứu còn hẹp, chỉ giới hạn trong các trường THCS, THPT và đại học, cao đẳng. Chưa có một nghiên cứu nào thực hiện trên đối tượng thanh niên Việt Nam mặc dù Luật Thanh niên đã quy định rõ giới hạn độ tuổi cho nhóm đối tượng này. Các quốc gia khác cũng có những quy định khác về độ tuổi của thanh niên nên cũng chưa có nghiên cứu nào được tiến hành cho trường hợp cụ thể

    ở Việt Nam.

  • Những yếu tố thuộc môi trường ngủ (ví dụ, ánh sáng, tiếng ồn, nhiệt độ, bề mặt
    giường,…) chưa được đề cập đến nhiều trong các nghiên cứu, mà chủ yếu là những

yếu tố chủ quan đến từ hoạt động giải trí hàng ngày của con người như đi học, đi làm, sử dụng thiết bị công nghệ tiên tiến, uống cafe, áp lực đè nén, … Chính thế cho nên, góp phần mới của nghiên cứu này sẽ giúp khỏa lấp hai khoảng chừng trống trên. Thứ nhất, nhóm tác giả sẽ chọn đối tượng thanh niên để khám phá về chất lượng giấc ngủ của nhóm tuổi này. Thứ hai, nhóm tác giả sẽ đưa thêm 1 số ít yếu tố khách quan thuộc môi trường tự nhiên ngủ được coi là có ảnh hưởng tác động tới chất lượng giấc ngủ vào quy mô dựa trên dẫn chứng từ những nghiên cứu quốc tế. Đề tài “ Các yếu tố ảnh hưởng tác động đến chất lượng giấc ngủ của người trẻ tuổi Nước Ta trên địa phận thành phố TP. Hà Nội ” được lựa chọn .

như một số loài chim mở một mắt khi ngủ. Quan sát và nghiên cứu kỹ lưỡng về giấc ngủ của các động vật có vú, chim, bò sát, động vật lưỡng cư, cá hay côn trùng có thể đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới mẻ về giấc ngủ. Giấc ngủ có thể xảy ra nhiều lần trong ngày và có thể tất cả đều quan trọng, chẳng hạn như giấc ngủ trưa giúp con người làm việc hiệu quả hơn vào buổi chiều. Khoa học phát triển, loài người đã có những thành tựu nhất định trong việc nghiên cứu về giấc ngủ nhưng thực tế thì giấc ngủ vẫn là một hoạt động bí ẩn đang chờ chúng ta khám phá. Như vậy, giấc ngủ có thể được định nghĩa như sau: “Giấc ngủ là một trạng thái tự nhiên, có tính chu kỳ, làm gián đoạn tạm thời một phần hay toàn bộ hoạt động của tâm trí và hoạt động cơ bắp cũng như làm giảm khả

năng phản ứng của cơ thể đối với các kích thích từ môi trường bên ngoài”.

Xem thêm: Đề tài nghiên cứu khoa học – Wikipedia tiếng Việt

3.1. Các giai đoạn của giấc ngủ Các nhà khoa học đã chứng minh rằng giấc ngủ không đơn giản là việc tạm ngừng mọi hoạt động của cơ thể. Trái lại, trong một chu kỳ giấc ngủ, hoạt động của trí não được chia ra thành từng giai đoạn nhỏ và mỗi giai đoạn cơ thể có những hoạt động đặc trưng riêng. Các nhà khoa học khi nghiên cứu về giấc ngủ của con người đã khẳng định rằng: khi ngủ, một số bộ phận của cơ thể luôn duy trì hoạt động và các hoạt động này diễn ra không đều ở các thời điểm khác nhau. Bằng việc theo dõi cơ thể con người khi ngủ người ta nhận thấy quá trình ngủ của con người được chia thành các giai đoạn nhất định. Ở mỗi giai đoạn, cơ thể có những hoạt động đặc trưng riêng. Khi ngủ các hoạt động của cơ thể diễn ra qua 5 giai đoạn: ru ngủ, ngủ nông, ngủ sâu, ngủ rất sâu và ngủ mơ (REM). Các giai đoạn diễn ra theo thứ tự tạo thành một chu kỳ và chu kỳ này được lặp đi lặp lại trong suốt thời gian kể từ khi nhắm mắt ngủ vào buổi tối hôm trước đến khi thức dậy vào sáng ngày hôm sau, thể hiện qua hình vẽ

sau:

Sơ đồ 1**.** Các giai đoạn của giấc ngủ

Ru ngủ Ngủ nông Ngủ sâu Ngủ rất sâu Ngủ mơ

NREM REM

5 quá trình của giấc ngủ được chia thành 2 nhóm : giấc ngủ REM ( rapid eye movement ) và giấc ngủ NREM / Non-REM ( non-rapid eye movement ). Cụ thể, giấc ngủ NREM gồm quá trình ru ngủ, ngủ nông, ngủ sâu và ngủ rất sâu. Giấc ngủ REM chỉ gồm có tiến trình ngủ mơ. Thực tế, mất ngủ hay những dạng rối loạn giấc ngủ khác đều được bộc lộ trải qua diễn biến những chu kỳ luân hồi giấc ngủ. Mọi yếu tố tác động ảnh hưởng làm gián đoạn hay ảnh hưởng tác động đến chu kỳ luân hồi ngủ tự nhiên đều là nguyên do dẫn đến mất ngủ hay những rối loạn giấc ngủ khác. Như vậy, bằng cách loại trừ những tác nhân gây ảnh hưởng tác động xấu đến chu kỳ luân hồi giấc ngủ, đồng thời tạo điều kiện kèm theo cho khung hình ngủ và thức dậy theo nhịp sinh học tự nhiên là cách hiệu suất cao nhất để ngủ ngon và là sự lựa chọn tốt nhất cho sức khỏe thể chất. Hãy cùng tìm hiểu và khám phá chi tiết cụ thể hoạt động giải trí của khung hình qua những quá trình của giấc ngủ trong một chu kỳ luân hồi. 1. Giai đoạn ru ngủ Thông thường tiến trình ru ngủ chỉ diễn ra từ 3-15 phút. Giai đoạn này khởi đầu diễn ra vào thời gian bạn nhắm mắt để mở màn ngủ. Ở quy trình tiến độ ru ngủ, khung hình chuyển dần sang trạng thái ngủ nông và hoàn toàn có thể bị thức tỉnh một cách thuận tiện. Những người bị thức giấc ở quá trình này thường nhớ những hình ảnh không rõ ràng, một số ít người còn bị co giật bất ngờ đột ngột, đây là hành vi phản ứng lại cảm xúc như mình đang rơi trước đó. Hiện tượng co giật này được gọi là hypnic myoclonia, diễn ra tương tự như như khi bạn đang tập trung chuyên sâu tâm lý thì người khác vỗ vào vai khiến bạn giật mình. 2. Giai đoạn ngủ nông Giai đoạn ngủ nông chiếm khoảng chừng 50 % tổng thời hạn ngủ. Ở tiến trình này mắt ngừng hoạt động và hoạt động giải trí của bộ não ( sóng não ) trở nên chậm hơn. Thỉnh thoảng bên trong não xảy ra những đợt sóng nhanh được gọi là sleep spindle, những đợt sóng nhanh này thưa dần khi chuyển tiếp sang quy trình tiến độ tiếp theo. 3. Giai đoạn ngủ sâu Giai đoạn này chỉ chiếm dưới 10 % tổng thời hạn ngủ. Ngủ sâu là quy trình tiến độ chuyển tiếp giữa ngủ nông và ngủ rất sâu. Ở tiến trình này sóng não diễn ra rất chậm và được gọi là sóng delta, nhiều lúc được xen kẽ với những đợt sóng nhanh. Nhiệt độ, nhịp tim, nhịp thở, huyết áp của khung hình đều giảm, mạng lưới hệ thống cơ xương khớp cũng giãn ra, chùng xuống. 4. Giai đoạn ngủ rất sâu Giai đoạn này chiếm khoảng chừng 20 % tổng thời hạn ngủ, đây là quy trình tiến độ quan trọng giúp khung hình được nghỉ ngơi gần như trọn vẹn. Ở quy trình tiến độ này, nhiệt độ của khung hình, nhịp tim, nhịp thở và huyết áp đều giảm xuống mức thấp nhất, trọn vẹn không có sự hoạt động của mắt và những cơ tay, chân. Lúc này, sóng sống sót trong bộ não hầu hết là sóng chậm delta. Những người bị thức giấc ở quá trình này thường cảm thấy choạng