Phụ nữ đoan trang là gì năm 2024

Theo ý kiến của nhiều độc giả, hình ảnh trên cùng câu “slogan quảng cáo” đã đi ngược lại văn hóa truyền thống dân tộc. Một cách hiểu đơn giản là khi “cấm phụ nữ đoan trang” tức là cổ súy cho việc phụ nữ sống buông thả, lả lơi.

Phụ nữ đoan trang là gì năm 2024
Bao diêm Thống Nhất với dòng chữ "Cấm phụ nữ đoan trang" in ở mặt phía sau (theo Kiến thức)

Anh Vũ Quang sống tại Hoàng Mai (Hà Nội), làm nghề bán nước... là khách hàng thường lấy diêm Thống Nhất phục vụ khách hút thuốc. Lý do khiến anh Quang chọn diêm thay vì bật lửa ga bởi chất lượng sản phẩm diêm Thống Nhất đã được khẳng định, hơn nữa dùng nhiều thành quen. Tuy nhiên sau khi xuất hiện hình ảnh quảng cáo “cấm phụ nữ đoan trang” trên mặt sau bao diêm, cái quán nước nhỏ của anh Quang bỗng trở thành nơi tranh luận về hình ảnh lạ đời này. Không ít người nói thẳng: “Kinh tế khó khăn nên chỉ cần ai có tiền thì muốn quảng cáo gì chả được”.

Nhằm rộng đường dư luận phóng viên báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với các bên làm rõ vì sao có quảng cáo này trên vỏ bao diêm Thống Nhất và nội dung quảng cáo là gì. Tuy nhiên, trái với sự phản ứng của khách hàng, khi PV liên hệ tìm hiểu vấn đề, người của diêm Thống Nhất tỏ ra khá thờ ơ khi cho rằng, đó cũng chỉ là hình ảnh quảng cáo và muốn hiểu rõ hơn, phải liên hệ với bộ phận kinh doanh. Trong khi đó, mặc dù phòng kinh doanh của diêm Thống Nhất hứa hẹn sẽ giải đáp "khúc mắc" của bạn đọc và khách hàng về quảng cáo khó hiểu này nhưng đến chiều ngày 27/11 khi PV gọi lại, một nhân viên nghe máy cho biết: “Hôm nay cả phòng kinh doanh đi công tác!? Có gì mai anh gọi lại”. Sau đó, dù PV cố liên hệ lại nhưng vẫn không ai bên diêm Thống Nhất đưa ra câu trả lời. Mặc khác, để làm rõ đầu số chủ nhân của Tổng đài 19008662 in quảng cáo, đại diện quản lý một trang mạng viễn thông, cho biết đầu số 19008xxx là thuộc quản lý của Công ty Viễn thông Quân đội Viettel. Trong khi đó, tổng đài tư vấn dịch vụ Viettel tại Hà Nội lại cho rằng đầu số 19008xxx không chỉ riêng gì Viettel. Cũng theo lời nhân viên tư vấn, việc đơn vị nào thuê đầu số 19008662 nên hỏi qua tổng đài 1068. Qua nhiều lần dò hỏi thông tin tuy nhiên danh tính đơn vị đứng sau đầu số với “slogan” quảng cáo “cấm phụ nữ đoan trang” vấn là dấu chấm hỏi.

Phụ nữ đoan trang là gì năm 2024
Tổng đài 19008662 với những nội dung "nhạy cảm"

Trong vai người cần tư vấn tình cảm, phóng viên đã liên hệ tới tổng đài 19008662. Đầu dây bên kia lập tức có một nữ nhân viên nhấc máy, khi PV chưa kịp nói gì, nữ nhân viên này đã mau mắn: “Anh muốn tư vấn chuyện tình yêu, gia đình hay chuyện gì?”. Khi đưa ra vấn đề muốn gặp trực tiếp chuyên gia để được tư vấn, nhân viên này đã từ chối và cho rằng chỉ có thể tư vấn qua điện thoại. Khi PV hỏi về chủ nhân của tổng đài 19008662 là đơn vị nào, nhân viên nữ này nhanh chóng từ chối cho biết thông tin. Từ sự thờ ơ của diêm Thống Nhất, đến sự mập mờ thông tin của đơn vị quảng cáo, nhiều khách hàng đặt câu hỏi, phải chăng chính diêm Thống Nhất cũng không xem đây là hình ảnh hay nội dung phản cảm và khi đơn vị quảng cáo đã chi tiền thì họ muốn quảng cáo gì là... quyền của họ? Được biết, ngoài nội dung quảng bá này, nhãn hàng diêm Thống Nhất thời gian qua còn liên tục đăng tải nhiều quảng cáo cung cấp thông tin dự đoán trước kết quả xổ số và lợi dụng khuyến mãi để kinh doanh xổ số trái phép với mục tiêu kiếm lợi nhuận thông qua việc thu tiền của khách hàng. Việc làm này trái với điều 6 Nghị định số 78/2012/NĐ-CP được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành mới đây.

* Mời độc giả đóng góp, cho ý kiến và gửi những bài viết của mình theo địa chỉ: [email protected] hoặc có thể BẤM VÀO ĐÂY để phản hồi!

Trong thế giới hậu c�ch mạng t�nh dục, y phục thiếu vải, v�y ngắn, �o tắm t� hon, quần xệ, v� �o cũn cỡn đ� trở th�nh một phần của thời trang ch�nh của phụ nữ ng�y nay. Đồng thời bất cứ người n�o thắc mắc về sự th�ch hợp của những y phục như thế đều bị coi l� "cứng ngắt", "lỗi thời", hay "thiếu th�ch nghi" với những kiểu c�ch t�n thời. Đoan trang kh�ng c�n l� th�nh phần của ngữ vựng của nền văn h�a của ch�ng ta nữa. Mặc d� hầu hết mọi người cảm thấy rằng họ kh�ng muốn ch�nh con g�i của m�nh ăn mặc như Mandonna v� Britney Spears, nhưng �t người c� can đảm đề cập đến đề t�i đoan trang, v� �t người biết phải n�i g� khi đề cập đến đề t�i n�y.

ĐTC Gioan Phaol� II � khi ấy l� Cha Wojtyla � trong cuốn s�ch T�nh Y�u v� Tr�ch Nhiệm, đ� đưa ra những tư tưởng kh�n ngoan m� ch�ng ta cần phải biết về bản chất của đức đoan trang v� tại sao ăn mặc đoan trang lại quan trọng trong việc củng cố mối li�n hệ giữa ch�ng ta v� những người kh�c ph�i.

Kinh Nghiệm về Xấu Hổ

ĐTC Gioan Phaol� II mở đầu b�i viết về đoan trang bằng c�ch giải th�ch về một kinh nghiệm chung của con người l� kinh nghiệm về xấu hổ. Xấu hổ li�n quan đến khuynh hướng che dấu một điều g� � kh�ng những chỉ điều xấu, như tội lỗi, khuyết điểm, những gi�y ph�t l�ng t�ng, nhưng cả những điều tốt m� ch�ng ta kh�ng muốn ai biết đến. Th� dụ, c� người l�m một điều tốt nhưng muốn dấu việc l�m của m�nh. Nếu người ấy được ca ngợi c�ch c�ng khai, anh c� thể cảm thấy bối rối, kh�ng phải l� v� anh l�m điều g� xấu, nhưng v� anh kh�ng muốn người kh�c ch� � đến việc l�m của anh. Cũng thế, một học sinh được điểm cao trong một b�i thi c� thể cảm thấy bối rối khi thầy gi�o khen em trước mặt cả lớp học, bởi v� em chỉ muốn cho c�c bạn th�n nhất v� gia đ�nh biết m� th�i. C� nhiều điều tốt ch�ng ta l�m m� kh�ng muốn nhiều người biết, v� ch�ng ta cảm thấy mắc cỡ v� những điều ấy được đưa ra �nh s�ng.

Điều n�y gi�p ch�ng ta hiểu một trong những kinh nghiệm về xấu hổ: xấu hổ về ph�i t�nh. Tại sao con người c� khuynh hướng che đậy những phần của th�n thể li�n hệ đến ph�i t�nh? Tại sao theo bản năng người ta vội v�ng che m�nh khi một người kh�c ph�i v� t�nh bước v�o trong l�c họ đang thay quần �o hoặc sửa soạn v�o ph�ng tắm? ĐTC Gioan Phaol� II giải th�ch rằng khuynh hướng che đậy những phần th�n thể n�y, l� điều tạo n�n ph�i nam hay ph�i nữ, tự n� kh�ng phải l� thực chất của xấu hổ, nhưng l� việc biểu lộ của một khuynh hướng s�u xa hơn để che đậy ch�nh những gi� trị về ph�i t�nh, "đặc biệt l� khi đến mức độ ch�ng gợi ra trong tr� một người ta như "một vật dụng để hưởng lạc" cho những người kh�c ph�i" (tr. 176).

Th� dụ, một người phụ nữ theo trực gi�c c� thể cảm thấy những phần n�o đ� của th�n thể m�nh bị lộ ra, m� một người đ�n �ng c� thể nh�n ngắm chị chỉ v� những gi� trị ph�i t�nh của chị như một vật để mua vui. Thật thế, những phần th�n thể đặc biệt ấy của biểu tỏ lộ những gi� trị ph�i t�nh của chị một c�ch qu� m�nh liệt đến nỗi một người nam kh�ng bị thu h�t v� gi� trị thật của chị như một người, m� chỉ về những gi� trị ph�i t�nh của chị, l� những g� l�m cho anh vui th�ch trong nh�n quan v� tr� tưởng tượng của anh.

Đ� l� l� do tại sao ch�ng ta c� khuynh hướng che dấu những gi� trị ph�i t�nh li�n hệ đến những phần tử đặc biệt của th�n x�c - kh�ng phải v� ch�ng xấu, nhưng v� ch�ng c� thể che khuất gi� trị cao qu� hơn của con người. Như thế ĐTC Gioan Phaol� II n�i rằng việc xấu hổ về ph�i t�nh l� "một h�nh thức tự nhi�n của việc tự vệ đối với một người" (tr. 182). N� gi�p một người tr�nh được việc bị coi l� một vật để mua vui. Như vậy sự che đậy những gi� trị ph�i t�nh qua việc ăn mặc đoan trang l� phương tiện để cung cấp một s�n khấu m� trong đ� những điều n�o cao qu� hơn l� những phản ứng thuần t�y nhục dục c� thể xảy ra. Việc ăn mặc đoan trang gi�p bảo vệ những tương quan giữa hai ph�i khỏi rơi v�o t�nh trạng vị kỷ, v� như thế tạo n�n dịp để cho t�nh y�u ch�n ch�nh đối với người kh�c được ph�t triển.

Xấu Hổ bị T�nh Y�u Hấp Thụ

Nhưng trong phạm vi t�nh y�u h�n nh�n - một t�nh y�u tự hiến trưởng th�nh của một cặp vợ chồng - th� người ta kh�ng c�n l� do g� để xấu hổ. T�nh y�u ch�n thật đảm bảo rằng những cảm nghiệm t�nh cảm v� gi�c cảm "được thấm nhuần bằng sự x�c nhận gi� trị của người ấy đến độ � muốn kh�ng thể n�o coi người kia l� vật dụng để d�ng" (tr. 183-184). Mỗi người ho�n to�n tin tưởng v�o t�nh y�u v� vị lợi của người kia. Người ấy ho�n to�n tin tưởng rằng m�nh kh�ng bị chỉ coi l� vật dụng mua vui cho người kia. Cho n�n niềm vui t�nh cảm v� gi�c cảm của người ấy được đặt nền tảng tr�n t�nh y�u ho�n to�n tự hiến v� � thức tr�ch nhiệm s�u xa đối với người kia.

Sự cần thiết của việc biết xấu hổ đ� được hấp thụ bởi t�nh y�u trưởng th�nh đối với một người: kh�ng c�n cần thiết nữa để một người phải che đậy đối với người y�u hay với ch�nh m�nh một � định vui hưởng, v� điều n�y đ� được t�nh y�u thật, l� t�nh y�u được � ch� điều khiển, hấp thụ. Việc x�c nhận gi� trị của một người thật sự thấm nhuần c�ch ho�n to�n tất cả những phản ứng gi�c quan v� t�nh cảm li�n hệ đến những gi� trị ph�i t�nh m� � ch� kh�ng bị đe dọa bởi c�i nh�n vị kỷ (tr. 184).

Tuy nhi�n, loại tin tưởng n�y chỉ c� thể được t�m thấy c�ch ho�n to�n trong t�nh y�u vợ chồng. Chỉ trong một h�n nh�n l�nh mạnh v� lớn mạnh m� việc xấu hổ được t�nh y�u hấp thụ c�ch n�y. Đ� l� l� do tại sao ch�ng ta muốn ăn mặc đoan trang khi ở với những người kh�c ph�i m� kh�ng phải l� vợ hay chồng của m�nh. Ở ngo�i phạm vi t�nh y�u vợ chồng, ch�ng ta phải cẩn thận trong việc tỏ lộ những gi� trị ph�i t�nh, nếu kh�ng ch�ng ta sẽ biến m�nh th�nh vật dụng cho những người kh�c ph�i d�ng.

Tr�nh Việc Kh�ch Quan Ho�

B�y giờ ch�ng ta sửa soạn để kh�m ph� ba kh�a cạnh của việc xấu hổ về ph�i t�nh được ĐTC Gioan Phaol� II tr�nh b�y. Ch�ng ta đ� n�i đến kh�a cạnh đầu ti�n - l� xấu hổ dẫn ch�ng ta đến việc che dấu những gi� trị ph�i t�nh để ch�ng kh�ng chỉ tạo ra phản ứng vị kỷ trong người kh�c. Một người phụ nữ phải tr�nh ăn mặc một c�ch cố t�nh k�o ch� � của người kh�c v�o những gi� trị ph�i t�nh của m�nh v� che khuất gi� trị của c� như một con người. Một số loại quần �o (hay thiếu quần �o) chắc chắn gợi ra phản ứng d�m dật đặt c� v�o t�nh trạng bị người ta coi như một vật để mua vui.

Nhưng c� một số phụ nữ sẽ phản đối: "Tại sao t�i lại c� tr�ch nhiệm ăn mặc đoan trang? Nếu một người đ�n �ng phải vật lộn với những tư tưởng d�m �, đ� l� vấn đề của anh ta chứ đ�u phải của t�i." Nhưng người phản đối n�y đ� qu�n một điểm m� ĐTC Gioan Phaol� II n�i đến. Mục đ�ch của ăn mặc đoan trang kh�ng phải để gi�p đ�n �ng tr�nh được những tư tưởng d�m �. Mục đ�nh ch�nh của việc ăn mặc đoan trang l� để bảo vệ ch�nh người phụ nữ. N� gi�p c� khỏi bị đối xử như một vật dụng để mua vui về x�c thịt.

ĐTC Gioan Phaol� II đưa ra hai tư tưởng quan trọng gi�p ch�ng ta hiểu điều n�y. Một đ�ng ch�ng ta phải nhớ rằng bản t�nh con người l� hay sa ng�. Cho n�n ch�ng ta kh�ng dễ d�ng tr�nh được khuynh hướng vị kỷ khi nh�n thấy th�n x�c của người kh�c ph�i. Th�i độ cho rằng "T�i kh�ng cần phải quan t�m đến việc t�i phải ăn mặc thế n�o - v� đ� l� vấn đề của đ�n �ng" l� th�i độ ng�y thơ coi nhẹ Tội Tổ T�ng. Như ĐTC Gioan Phaol� II giải th�ch, "Hỡi �i, người đ�n �ng kh�ng phải l� một con người ho�n hảo đến nỗi khi thấy th�n x�c của một người kh�c.. . c� thể chỉ dậy l�n trong m�nh một sự y�u th�ch v� vị lợi, l� sự y�u th�ch c� thể ph�t triển th�nh cảm t�nh ng�y thơ. Tr�n thực h�nh, n� cũng c� thể dậy l�n khuynh hướng t� d�m, hay một ao ước t�m vui th�ch đặt trọng t�m v�o những gi� trị ph�i t�nh v� coi thường gi� trị của con người" (tr. 190). V� hậu quả của Tội Tổ T�ng, � ch� của con người "qu� dễ d�ng chấp nhận phản ứng t� d�m v� hạ người kia xuống� vai tr� một vật dụng để mua vui" (tr. 191). V� khi điều n�y xảy ra, ĐTC Gioan Phaol� II gọi n� l� "hạ nh�n c�ch bằng việc t�nh dục h�a." Người ta kh�ng nh�n người phụ nữ như một con người nữa. C� bị hạ xuống th�nh một vật dụng người ta c� thể d�ng để hưởng th� vui x�c thịt. Việc ăn mặc đoan trang gi�p người phụ nữ tr�nh được việc bị hạ nh�n c�ch như thế.

Mặt kh�c, ĐTC Gioan Phaol� II tiếp tục bằng c�ch nhắc cho ch�ng ta rằng đ�n �ng phải vật lộn với tật m� d�m dục nhiều hơn phụ nữ. Cho n�n, ch�ng ta kh�ng ngạc nhi�n khi c�c phụ nữ c� thể kh� m� hiểu được việc ăn mặc đoan trang gồm những g�, v� t�nh m� d�m dục của họ kh�ng mạnh bằng của đ�n �ng. "Bởi v� một người phụ nữ kh�ng t�m thấy trong m�nh sự m� d�m m� người đ�n �ng, như một luật lệ kh�ng thể kh�ng � thức, n�n c� ta kh�ng cảm thấy một nhu cầu phải che đậy th�n x�c như một mục ti�u để mua vui" (tr. 177). V� l� do đ� m� phụ nữ thường kh�ng nhận thức được rằng một c�ch h�nh động hay phục sức n�o đ� c� thể thật sự l� thiếu đoan trang. V� họ c� thể ho�n to�n kh�ng biết rằng c�ch ăn mặc của họ c� thể l�m cho họ bị đ�n �ng chỉ coi họ l� vật dụng để thỏa m�n th� vui nhục dục. "Thường th� một phụ nữ kh�ng coi một c�ch ăn mặc n�o đ� l� trơ trẽn� mặc d� c� một số đ�n �ng, hay thực ra, nhiều đ�n �ng, c� thể thấy như thế" (tr. 189).

Che Đậy c�c Phản Ứng của m�nh

B�nh diện thứ nh� của việc xấu hổ về ph�i t�nh l� khuynh hướng che đậy c�c phản ứng vị kỷ của ch�nh m�nh đối với người kh�c ph�i khi ch�ng ta coi họ như l� những vật dụng để hưởng lạc th�. Ch�ng ta � thức rằng một con người kh�ng phải l� một vật để m�nh sử dụng, v� ch�ng ta cảm thấy xấu hổ khi ch�ng ta đối xử với người kh�c như thế trong c�i nh�n, tư tưởng hay tr� tưởng tượng của m�nh. Tận đ�y l�ng, một người đ�n �ng cảm thấy, "T�i kh�ng được đụng đến n�ng, ngay cả bằng một � muốn thầm k�n t�m lạc th� nơi n�ng, v� n�ng kh�ng thể l� một vật để t�i d�ng" (tr. 180).

H�y x�t đến điều thường xảy ra khi một người đ�n �ng nh�n chằm chằm v�o một phụ nữ c�ch d�m dật v� c� ta nhận ra điều ấy. Khi vừa bị bắt quả tang th� anh quay đi chỗ kh�c bởi anh cảm thấy xấu hổ v� điều m�nh vừa l�m. Anh kh�ng muốn th�i độ vị kỷ của anh đối với c� ta bị lộ tẩy. Anh biết rằng anh kh�ng c� quyền đối xử với một phụ nữ như thế v� anh vội v�ng quay đi chỗ kh�c.

T�nh Y�u Hứng Khởi

B�nh diện thứ ba v� quan trọng nhất của việc xấu hổ về ph�i t�nh l� sự li�n hệ của n� với t�nh y�u. Chung quy, việc phục sức đoan trang t�m c�ch g�y cảm hứng cho t�nh y�u - t�nh y�u ch�n ch�nh đối với một người, chứ kh�ng phải chỉ phản ứng về t�nh dục đối với th�n x�c một phụ nữ. Tận đ�y l�ng của một người phụ nữ, c� một sự khao kh�t gợi hứng v� cảm nghiệm t�nh y�u. Như thế, một người phụ nữ phải ăn mặc c�ch n�o để l�m cho người kh�c y�u c� như một con người.

Việc ăn mặc khiếm nh� cản trở những khả năng gi�p cho t�nh y�u ch�n ch�nh ph�t triển, bởi v� n� k�o sự ch� � của người ta đến những gi� trị t�nh dục của c� đến nỗi che khuất gi� trị thật của c� như một con người. N�i c�ch kh�c, một phụ nữ ăn mặc c�ch thiếu đoan trang c� lẽ cố t�nh kh�u gợi cho người kh�c phản ứng d�m dật đối với th�n x�c của c�. V� c� c� thể hấp dẫn nhiều đ�n �ng đến việc coi th�n x�c c� như một vật dụng để mua vui. Nhưng c� kh�ng gợi hứng cho c�c người đ�n �ng y�u c� như một người.

Ở đ�y ch�ng ta thấy mục đ�ch của việc phục sức đoan trang kh�ng phải l� chỉ để gi�p đ�n �ng tr�nh phạm tội. N� cũng kh�ng đơn thuần l� "một phản ứng tự vệ" bảo vệ phụ nữ khỏi bị sử dụng. Cuối c�ng, mục đ�ch của việc ăn mặc đoan trang l� g�y ra một phản ứng đối với gi� trị của con người - chứ kh�ng phải chỉ những gi� trị ph�i t�nh. Như ĐTC Gioan Phaol� II giải th�ch, "việc đoan trang về ph�i t�nh kh�ng phải l� một cuộc chạy trốn t�nh y�u, m� ngược lại l� một c�ch mở cửa cho t�nh y�u. Việc tự động cần phải che đậy những gi� trị thuần t�y x�c dục gắn liền với con người l� c�ch tự nhi�n để kh�m ph� ra gi� trị của con người như l� một người" (tr. 179).

(Viết theo To Inspire Love: A Return to Modesty của Eward P. Sri, từ May/June 2006 Issue of Lay Witness Magazine)