So sánh thành ngữ và quán ngữ

Quán ngữ là gì? Đặc điểm của quán ngữ có những gì? Ngay sau đây chúng ta hãy cùng nhau đi tìm hiểu về quán ngữ trong bài viết dưới đây.

Xem ngay

  • Định ngữ là gì? Định ngữ chỉ định lượng, định ngữ chỉ loại là gì?
  • Cụm danh từ là gì? Cấu tạo của cụm danh từ là gì?

So sánh thành ngữ và quán ngữ

Quán ngữ là gì?

– Quán ngữ là lối nói do sử dụng lâu ngày mà quen dần và trở nên ổn định về hình thức và nghĩa. Khác với thành ngữ, trong quán ngữ, các từ vẫn còn giữ được tính độc lập tương đối của chúng, vì thế thường ta có thể suy ra nghĩa của quán ngữ bằng cách tìm hiểu ý nghĩa của các từ hợp thành.

– Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ, thuộc nhiều phong cách khác nhau. Chức năng của quán ngữ là để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên kết trong diễn từ.

Ví dụ: khỏe như trâu, nói có bàn thờ, khôn nhà dại chợ, lừ đừ như từ vào đền, khỏe như voi..

Đặc điểm của quán ngữ

– Quán ngữ là một tổ hợp từ cố định được sản sinh trong quá trình giao tiếp. Vì thế nó mang theo tất cả những đặc điểm được thể hiện trong giao tiếp và chịu sự chế định từ các nhân tố của lời nói.

– Từ ngữ trong ngôn ngữ vốn có tính chất linh hoạt, được sử dụng và kết hợp tự do. Tuy nhiên vẫn có những quy tắc điều chỉnh nhất định, đồng thời có tính chất cố định tương đối.

– Quán ngữ chính là các tổ hợp từ được kết hợp, đã trải qua quá trình sử dụng lâu dài thành thói quen, được định hình và có tính cố định tương đối.

– Chẳng hạn, quán ngữ “đùng một cái”, thể hiện ý nghĩa diễn biến bất ngờ không lường trước được và có chiều hướng xấu.

– Mọi người đều quen dùng với hình thức và ý nghĩa như vậy, không ai thay thế hay đảo lộn từ trong quán ngữ trên, cũng không ai dùng nó để thể hiện diễn biến bất ngờ với ý tích cực.

So sánh thành ngữ và quán ngữ

Bản chất của quán ngữ

– Quán ngữ bản chất là cụm từ (tổ hợp từ) bởi vậy nó có thể là bất cứ từ loại nào, đảm nhận nhiều vị trí, chức năng trong câu như các từ ngữ đơn thuần.

– Tuy nhiên do tính chất đặc biệt của mình, mà quán ngữ mang lại hiệu quả diễn đạt cao hơn, quán ngữ rất hay được dùng để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên kết,…

Ví dụ: “Đừng có mà lên lớp dạy đời!”

+ Dùng quán ngữ “lên lớp” và “dạy đời“, sẽ có hiệu quả diễn đạt hơn hẳn câu có ý nghĩa tương đương nhưng dùng từ ngữ thông thường như: “Đừng có mà lúc nào cũng tỏ ra hiểu biết và luôn đi dạy bảo người khác phải làm gì!”

– Việc phân loại quán ngữ đôi khi được nêu ra tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, phân loại, giải nghĩa,… với nhiều các phân loại khác nhau, từ nguồn gốc, hình thái, góc độ dụng học,…

Phân biệt quán ngữ và thành ngữ

– Điểm giống nhau giữa quán ngữ và thành ngữ là chúng đều là các tổ hợp từ cố định, tuy nhiên ý nghĩa thành ngữ thường đã thoát li khỏi ý nghĩa đơn thuần của các từ ngữ cấu tạo nên nó, (không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó), thì ý nghĩa quán ngữ vẫn còn tương đối gắn với ý nghĩa của các từ tạo nên nó.

– Một bộ phận tổ hợp từ cố định ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngữ rất nhiều. Nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng như thành ngữ. Tức là bộ phận trung gian của quán ngữ và thành ngữ đôi khi được gọi là “Ngữ cố định định danh”.

– Chẳng hạn: Quân sư quạt mo, Anh hùng rơm, Con gái rượu, Tóc rễ tre, Mắt ốc nhồi, Má bánh đúc, Mũi dọc dừa,…

Tất cả c�c ng�n ngữ c� vốn từ vựng phong ph� đều c� th�nh ngữ. Từ vựng c�ng phong ph�, th�nh ngữ c�ng nhiều. Nếu chỉ so về số lượng, th� số th�nh ngữ của tiếng Việt kh�ng nhiều bằng số th�nh ngữ của tiếng Anh, tiếng Ph�p, v� tiếng H�n. Nhưng t�nh tỉ lệ giữa số th�nh ngữ v� từ vựng, th� tiếng Việt c� tỉ lệ cao hơn. L� do l� v� người Việt ch�ng ta, trong khi n�i, trong khi viết, th�ch d�ng những �, những mẫu c� sẵn. Những mẫu, những � ấy được những thế hệ trước tạo ra, những thế hệ sau ứng dụng quen, trở th�nh th�nh ngữ. Nhưng hệ quả kh�ng dừng lại ở đ�. Thế hệ ng�y nay chắc chắn cũng tạo ra được những �, những mẫu mới, để những thế hệ sau n�y d�ng. Số th�nh ngữ hiện dụng sẽ c� th�m một số mới, nhưng cũng c� thể bớt đi một số cũ m� người ta kh�ng th�ch d�ng nữa. Đ� l� c�i thế tất nhi�n tr�n con đường ph�t triển của một sinh ngữ.

Nhưng, th�nh ngữ l� g�? Trước khi đi v�o nội dung, thiết tưởng ch�ng ta cần tạm đồng � với nhau về một số từ ngữ chuy�n m�n, v� về một v�i đặc điểm trong hiện t�nh tiếng Việt, để dễ hiểu nhau:

1- Ch�ng ta h�y d�ng từ "ngữ ph�p" để chỉ c�ch n�i, c�ch viết đ�ng một ng�n ngữ. Ng�y xưa, học giới thường d�ng từ "văn phạm" v�o chỗ n�y. Nhưng chữ "văn" (viết văn, l�m văn) v� chữ "phạm" (khu�n ph�p) đ� thu hẹp phạm vi v� chuy�n m�n ho� m�n học, khiến người thường (kh�ng phải l� học sinh, thầy gi�o, nh� văn...) c� thể nghĩ l� m�n học kh�ng li�n quan g� đến họ. Từ "ngữ ph�p" (c�ch n�i đ�ng) c� phạm vi rộng, dễ phổ cập hơn.

Nhưng x�t về mặt ngữ nghĩa l� thuyết cũng như mặt phạm vi ứng dụng, "ngữ ph�p" n�i đ�y ch�nh l� "văn phạm", một thuật ngữ ng�y trước ch�ng ta vẫn quen d�ng để dịch chữ "grammaire" của tiếng Ph�p, v� chữ "grammar" của tiếng Anh.

2- Tiếng Việt của ch�ng ta cũng đ� c� một số s�ch ngữ ph�p soạn thảo kh� c�ng phu, nhưng cho đến nay, vẫn chưa c� cuốn n�o được mọi người ho�n to�n chấp nhận. Thế cho n�n, mọi vấn đề ch�ng ta n�u ra ở đ�y đều c� t�nh c�ch gợi �, đề nghị, hoặc thử nghiệm.

3- Ch�ng ta h�y gọi những chữ như "ăn", "nh�", "ngon", "rộng", l� từ; gọi những chữ như "ăn uống", "nh� cửa", "ngon l�nh", "rộng r�i", l� từ gh�p; gọi những chữ đ� quen đi với nhau th�nh một nh�m, như "n�i cho đ�ng", "tối như mực", "lỡ �ng lỡ thằng" , l� nh�m chữ , hoặc ngữ.

Đi v�o phạm vi ứng dụng trong c�u, t�y trường hợp ch�ng ta sẽ gọi những nh�m chữ ấy l� "qu�n ngữ", l� "khởi ngữ", l� "kh� ngữ", l� "trợ ngữ", l� "trạng ngữ", v.v...

Về mặt � nghĩa, ch�ng ta cũng sẽ ph�n biệt "th�nh ngữ" v� "tục ngữ"... Đồng thời, vạch ranh giới cho c�c c�u tục ngữ, với những c�u ca dao, ngạn ngữ, phương ng�n, danh ng�n ...

4- Trong những th�nh ngữ th�ng dụng hiện nay, c� một số c� "dị bản" tức l� kh�c nhau một đ�i chữ, từ đ� dẫn đến c�ch

hiểu kh�c nhau. Ch�ng ta cũng n�n thảo luận để thống nhất � kiến n�n d�ng c�u n�o, n�n hiểu c�u ấy theo nghĩa n�o.

B�y giờ, ch�ng ta đi v�o chủ đề th�nh ngữ. Như tr�n đ� n�i, tiếng Việt c� nhiều th�nh ngữ. N�i c�ch kh�c, trong khi n�i v� viết, người Việt ch�ng ta hay d�ng th�nh ngữ. Thay v� n�i "đ�m ấy, trời rất tối", ch�ng ta n�i "đ�m ấy, trời tối đen như

mực"; thay v� n�i "�ng ta suốt ng�y l�m việc khổ cực", ch�ng ta n�i "�ng ta suốt ng�y đầu tắt mặt tối".

Như vậy, ch�ng ta nhận ra một đặc điểm về c�ng dụng của th�nh ngữ: Th�nh ngữ kh�ng phải l� một c�ch ph�t biểu duy nhất đ�ng, cũng kh�ng phải l� c�ch n�i bắt buộc, m� l� một c�ch n�i thường được chọn lựa. Trong khi n�i hoặc viết (từ đ�y, t�i sẽ d�ng một m�nh chữ "n�i", cho gọn), ch�ng ta d�ng th�nh ngữ l� muốn lời ph�t biểu c� chỗ dựa, mong người nghe hiểu tắt theo lối ước lệ.

Chẳng hạn, khi nghe n�i một �ng n�o đ� "r�n s�nh ra mỡ", kh�ng ai mất c�ng suy nghĩ xem s�nh c� r�n ra mỡ được kh�ng, hoặc �ng kia c� chịu kh� r�n s�nh để lấy mỡ kh�ng, m� ai cũng hiểu ngay l� �ng ta rất h� tiện, rất chắt m�t. Khi nghe n�i một người đ�n b� n�o đ� c� dung nhan "chim sa c� lặn", kh�ng ai thắc mắc rằng trước nhan sắc của một người đ�n b� đẹp, chim c� sa v� c� c� lặn thật kh�ng, m� ai cũng hiểu ngay l� người ph�t biểu muốn cực tả c�i nhan sắc của người đ�n b� kia.

T�m lại, th�nh ngữ tạo ra sự mặc nhi�n hiểu nhau giữa người n�i v� người nghe, qua ngữ nghĩa c� t�nh c�ch ước lệ, đ� được thừa nhận theo truyền thống.

Th�nh ngữ kh�ng phải lu�n lu�n gọn hơn, �t chữ hơn lời n�i thường. C� lắm khi th�nh ngữ d�i hơn. Chẳng hạn, n�i "rất tối" chỉ tốn hai chữ, nhưng n�i "tối như đ�m ba mươi" phải mất năm chữ; n�i "rất keo kiệt" chỉ mất ba chữ, nhưng n�i "vắt cổ ch�y ra nước" phải tốn năm chữ. Nhưng nhiều người vẫn nghĩ l� d�ng th�nh ngữ th� lời n�i h�m s�c hơn. V� đ�u? V� th�nh ngữ lu�n lu�n c� t�nh c�ch tu từ, được coi l� hay hơn , l� � nhị hơn lời n�i thường.

Xin trở lại với những th�nh ngữ cực tả một đ�m tối trời. Ch�ng ta c� thể n�i: Đ�m ấy trời rất tối, ch�ng t�i nh�n chẳng thấy g� cả. N�i như vậy cũng rất r�, nhưng chưa phải l� cực tả, chưa c� h�nh tượng g�. Cho n�n c� khi ch�ng ta chọn c�ch n�i kh�c: -Đ�m ấy, trời tối đen như mực; ... tối ngửa b�n tay kh�ng thấy; ... tối như hũ n�t ; ... tối như đ�m ba mươi. Cả bốn c�u đều c� t�nh c�ch cực tả, hoặc d�ng h�nh tượng. C�u đầu d�ng sắc độ; c�u thứ nh� n�i đến tầm nh�n; c�u thứ ba giả tưởng ho�n cảnh (ai chui v�o trong hũ m� biết trong ấy tối); c�u cuối đề cập đến sự bất thường của c�i đ�m đang n�i (kh�ng phải l� đ�m cuối th�ng, nhưng tối đen như một đ�m nguyệt tận).

Nhận ra t�nh c�ch ước lệ của c�c th�nh ngữ, tức l� ch�ng ta hiểu những nh�m chữ tu từ ấy c� � nghĩa tương đối hơn l� ch�nh x�c, nặng về nghĩa b�ng hơn l� nghĩa thực. Kh�ng ai hiểu th�nh ngữ "bị đ� đầu cỡi cổ" theo nghĩa đen l� bị kẻ mạnh đ� đầu xuống v� ngồi l�n cổ, m� chỉ hiểu theo nghĩa b�ng l� bị �p bức; kh�ng ai nghĩ th�nh ngữ "khỏe như v�m" l� thực sự mạnh như voi, m� chỉ hiểu l� mạnh hơn b�nh thường. Hiểu một c�ch đồng t�nh ch�m chước như vậy, để m� d�ng th�nh ngữ, để m� nghe th�nh ngữ, tức l� ch�ng ta cầu viện ở th�nh ngữ c�i c�ng dụng cực tả, đ�i khi c� phần thậm xưng.

Về h�nh thức cấu tạo, th�nh ngữ l� những nh�m từ cố định, quen đi với nhau để truyền đạt một � nghĩa theo ng�n ngữ truyền thống. Chữ "cố định" ở đ�y cũng c� nghĩa tương đối. Ch�ng ta n�i "d�y gi� dạn sương", nhưng cũng c� thể n�i "gi� sương d�y dạn "; ch�ng ta n�i "dễ như trở b�n tay", nhưng cũng c� thể n�i "dễ như lật b�n tay". Trật tự của c�c từ trong nh�m c� thể thay đổi, thậm ch� từ cũng c� thể thay thế, miễn l� n�i l�n được nguy�n �. T�i n�i "dữ như cọp", nhưng bạn c� thể n�i "dữ như beo", v� kh�ng ai c�n nhắc c�u n�o đ�ng hơn c�u n�o.

Kh�ng biết từ đời n�o, �ng cha ch�ng ta gh�p những từ ấy lại th�nh nh�m với nhau để n�i l�n c�i � nghĩa kia, người đồng thời v� người đời sau nghe thuận tai, bắt chước n�i theo. Ng�y nay, ch�ng ta tiếp tục d�ng, v� gọi t�n những nh�m từ đ� l� "th�nh ngữ".

Cũng giống như trong những ng�n ngữ kh�c, trong tiếng Việt, ngo�i những th�nh ngữ, c�n c� những nh�m từ kh�c quen đi với nhau. Nếu chỉ căn cứ v�o yếu tố quen đi với nhau m� th�nh nh�m, th� ch�ng ta cũng c� thể gọi tất cả những nh�m từ ấy l� th�nh ngữ. Nhưng nếu c�n dựa v�o những yếu tố kh�c như vị tr� trong c�u, chức năng ngữ ph�p, hoặc � nghĩa ri�ng, th� ch�ng ta sẽ nhận ra kh�ng phải tất cả đều l� th�nh ngữ. Tiếng Việt ng�y nay đ� đạt đến tr�nh độ tinh luyện, ch�ng ta cũng n�n thử ph�n biệt th�nh ngữ với những dạng thức tương tự.

Xin n�u th� dụ cụ thể để nhận định:

1- Để x�c định phạm vi rộng hẹp của � sắp tr�nh b�y, ch�ng ta thường mở đầu: - N�i chung th� ... (n�i một c�ch tổng qu�t; nh�n chung; đại thể; đại cương m� n�i...) - n�i ri�ng th�... (đi v�o chi tiết; nh�n ri�ng; để cho được r� r�ng hơn; chuy�n biệt m� n�i...).

Để khẳng định t�nh chất của � sắp tr�nh b�y, ch�ng ta thường mở đầu: - Th�nh thực m� n�i; n�i ch� t�nh; n�i cho đ�ng; n�i thật với nhau; n�i m� kh�ng sợ qu� lời; v.v...

Đ�y l� những nh�m từ quen d�ng, lịch sử c� lẽ cũng kh�ng d�i lắm. Một người n�o đ� d�ng trước, ch�ng ta d�ng theo, v� ai cũng hiểu theo một �. Vậy, ch�ng ta c� thể gọi ch�ng l� "th�nh ngữ" chăng? C� thể lắm. Nhưng c�c nh� ngữ ph�p đ� đặt t�n cho ch�ng l� "qu�n ngữ" (những ngữ quen d�ng). Về mặt được d�ng l�u ng�y th�nh quen trong ng�n ngữ, th� "qu�n ngữ" kh�ng kh�c "th�nh ngữ". Nhưng để ph�n biệt, ch�ng ta h�y để � điểm n�y: Th�nh ngữ thường c� nội dung so s�nh, c�n qu�n ngữ chỉ l� một c�ch n�i.

2- X�t về mặt ni�n kỷ, qu�n ngữ phần nhiều �t tuổi hơn th�nh ngữ. Trong c�c t�c phẩm cổ văn ra đời c�ch nay v�i ba trăm năm, c� thể c� những th�nh ngữ "đẹp như ti�n", "đen như cột nh� ch�y", nhưng chắc chưa c� những qu�n ngữ như "n�i ri�ng với nhau m� nghe", "để b� con dễ th�ng cảm"...

3- Những qu�n ngữ được d�ng để mở đầu một c�u như trong c�c th� dụ n�u tr�n, thường được gọi l� "khởi ngữ" (ngữ

bắt đầu c�u). Nhưng trong th�ng dụng, qu�n ngữ kh�ng phải lu�n lu�n l� khởi ngữ. N�i c�ch kh�c, qu�n ngữ kh�ng phải l�c n�o cũng đứng đầu c�u để l�m khởi ngữ. Qu�n ngữ c� thể đứng giữa c�u, cuối c�u. Khi đ�, qu�n ngữ sẽ mang t�n theo chức năng ngữ ph�p.

Th� dụ: T�nh h�nh s�ch b�o tiếng Việt ở hải ngoại, n�i chung, cũng c� điểm đ�ng mừng.

Nằm ở giữa c�u, � nghĩa kh�ng kh�c khi nằm ở đầu c�u, nhưng qu�n ngữ "n�i chung" kh�ng c� chức năng mở đầu c�u n�n kh�ng được gọi l� "khởi ngữ". Ở đ�y, n� c� phận sự đưa đẩy. Ch�ng ta h�y gọi n� l� "chuyển ngữ".

B�y giờ, ch�ng ta thử đặt "n�i chung" ở vị tr� cuối c�u: T�nh h�nh s�ch b�o tiếng Việt ở hải ngoại cũng c� điểm đ�ng mừng, n�i chung. Nghe hơi mới, nhưng vẫn được. Về t�n gọi, ch�ng ta c� n�n gọi qu�n ngữ n�y l� "kết ngữ" kh�ng? Thiết tưởng kh�ng n�n. Gọi thế sẽ trở th�nh cầu kỳ tế to�i, v� tuy rằng ở đ�y "n�i chung" kh�ng nằm ở giữa c�u, nhưng vẫn l�m phận sự đưa đẩy lời n�i. Cũng như trường hợp chữ "thưa �ng" trong hai c�u n�y: - Thưa �ng, t�i đ� l�m xong. - T�i đ� l�m xong, thưa �ng. Vị tr� kh�c, nhưng chức năng kh�ng kh�c.

Vậy, khi qu�n ngữ đứng ở đầu c�u, ch�ng ta gọi l� khởi ngữ; nếu ch�ng đứng ở vị tr� kh�c, ch�ng ta gọi l� chuyển ngữ. Nếu lười gọi t�n ri�ng, ch�ng ta gọi chung ch�ng l� qu�n ngữ.

Đến đ�y, đ� c� g� l�m ranh giới giữa "th�nh ngữ" v� "qu�n ngữ" chưa? Thiết tưởng đ� c�, nhưng chưa được minh bạch lắm. Xin nhắc lại v� th�m:

- Th�nh ngữ v� qu�n ngữ đều l� những nh�m từ quen d�ng đối với mọi người. C� thể c� người kh�ng th�ch d�ng, nhưng nghe vẫn hiểu đ�ng �.

- Th�nh ngữ lu�n lu�n h�m � so s�nh, nhận x�t, nặng về nội dung. Qu�n ngữ chỉ mở �, chuyển �, nặng về h�nh thức.

- Về số lượng, th�nh ngữ nhiều hơn qu�n ngữ thập bội. Nhưng t�nh số lần được d�ng, th� qu�n ngữ được d�ng nhiều hơn. Kiểm một cuốn s�ch khoảng 200 trang, kh�ng chắc đếm được đến 20 th�nh ngữ; nhưng c� thể đếm được cả trăm qu�n ngữ mở đầu c�u như "thật ra", "nh�n chung", "n�i cho d�ng"...

- Dịch một qu�n ngữ tiếng ngoại quốc ra tiếng Việt rất dễ (một số qu�n ngữ th�ng dụng trong tiếng Việt ng�y nay c� dạng gốc ở tiếng Anh, tiếng Ph�p), nhưng kh�ng dễ g� t�m được, những th�nh ngữ đồng nghĩa trong hai thứ tiếng. Thường chỉ c� thể dịch theo �.

B�y giờ,ch�ng ta thử ph�n biệt th�nh ngữ v� tục ngữ. Việc n�y kh� hơn việc vừa rồi.

Cũng xin lấy th� dụ để ph�n biệt.

Xin n�u những c�u c� chữ "sống" v� chữ "chết":

1- Sống l�u hơn gi�u lăm (sức khỏe qu� hơn của cải);

2- Sống chết c� số (con người kh�ng l�m chủ được sự sống chết của m�nh, vậy n�n an nhi�n m� sống cho phải đạo l�m người);

3- Sống c�i nh�, gi� c�i mồ (gi� ở đ�y c� nghĩa l� chết. Khi sống, người ta cần ng�i nh� cho rộng r�i tiện nghi, khi chết đi, cần c� ng�i mộ cho tươm tất. C�u n�y c� � biện minh cho những việc cố c�ng l�m nh� cửa v� x�y sinh phần trong phong tục của người Việt-Nam. Cũng c� � khuy�n con ch�u n�n lo cho cha mẹ, �ng b� về nơi cư tr� khi sống v� nơi an nghỉ khi qua đời);

4- Sống đồng tịch đồng s�ng, chết đồng quan đồng qu�ch (tịch s�ng l� chiếu giường; quan qu�ch l� h�m ch�n người. Ca ngợi v� khuyến kh�ch t�nh nghĩa keo sơn giữa vợ chồng);

5- Chết vinh hơn sống nhục = Sống đục sao bằng th�c trong (mạng sống l� trọng, nhưng cũng c� khi con người phải chọn c�i chết để bảo to�n danh dự);

6- Chết bờ chết bụi = Chết đường chết chợ (cực tả cảnh khốn c�ng kh�ng nh� cửa, kh�ng người th�n, l�c cuối đời của những người bất hạnh);

7- Thập tử nhất sinh (trong ho�n cảnh nguy hiểm, muời phần chết một phần sống);

8- Chạy b�n sống b�n chết (chạy tho�t th�n trong ho�n cảnh vừa nguy hiểm vừa khẩn cấp);

9- Chết đứng như Từ Hải (gặp chuyện bất ngờ kh� xử, kh�ng biết phải n�i năng đối ph� ra sao, chỉ đứng lặng thinh; cũng n�i l� "đứng chết tr�n");

10- Sống vất sống vưởng (cực tả cảnh sống khổ cực l� la của một người khốn c�ng).

C�n nhiều c�u nữa, nhưng bao nhi�u đ� nghĩ cũng tạm đủ để biện biệt. Năm c�u đầu (1-5) c� � khuy�n bảo; năm c�u sau (6-10) chỉ m� tả. Những c�u đầu l� "tục ngữ"; những c�u sau l� "th�nh ngữ".

Thật ra, ranh giới giữa tục ngữ v� th�nh ngữ kh�ng lu�n lu�n r� r�ng như đối với những c�u vừa n�u. Chẳng hạn, những c�u sau đ�y l� tục ngữ hay chỉ l� th�nh ngữ?

- Chết lỗ ch�n tr�u = Chết vũng tr�u nằm = Đi năm s�ng bảy suối về chết lỗ ch�n tr�u: C�u n�y c� � ph�n n�n cho một người c� khả năng, c� kinh nghiệm sống, m� phải chịu thất bại, trong một ho�n cảnh kh�ng đ�ng. Tuy cũng c� � khuy�n phải thận trọng trong những l�c tưởng l� dễ d�ng, nhưng � khuy�n kh�ng r� r�ng. � khuy�n chỉ r� r�ng khi c� ngữ cảnh hỗ trợ: - T�i biết t�i anh, nhưng anh kh�ng n�n qu� coi thường kẻ địch, coi chừng chết lỗ ch�n tr�u đấy!

- V�o sinh ra tử: Khi chưa c� ngữ cảnh, mấy chữ n�y chỉ diễn tả cảnh chiến đấu cực kỳ nguy hiểm của một người d�m đem mạng sống của m�nh ra thử th�ch. Nhưng nếu mục đ�ch chiến đấu kh�ng cao cả, th� kh�ng ai đem c�u n�y m� g�n cho. Mới nghe, th� � nghĩa c� vẻ trung t�nh (neutral, neutre), nhưng thật ra cũng c� � t�n dương. Trong th�ng dụng, người n�i chỉ cầu viện đến những chữ n�y khi cần khen ch�: - Anh ấy đ� biết bao lần v�o sinh ra tử để cứu bạn đồng đội; - Hai người đ� từng v�o sinh ra tử với nhau, m� b�y giờ coi nhau như kẻ th�.

Về mặt c� ph�p, tục ngữ l� nh�m chữ lồng trong c�u, nhưng cũng c� thể tự m�nh l�m th�nh c�u ri�ng. Nhiều tục ngữ c� cấu tr�c chủ ngữ (sujet) - vị ngữ (pr�dicat). Sống l�u l� chủ ngữ; hơn gi�u lắm l� vị ngữ. Th�nh ngữ thường kh�ng c� cấu tr�c đ�. Sống vất sống vưởng l� nh�m từ kh�ng c� chủ ngữ.

Ở tr�n, ch�ng ta đ� t�ch biệt tục ngữ từ th�nh ngữ n�i chung. Ch�ng ta cũng đ� t�ch biệt từ th�nh ngữ ra qu�n ngữ, v� từ qu�n ngữ ra khởi ngữ v� chuyển ngữ.

Dưới đ�y, ch�ng ta sẽ đề cập th�m đến những nh�m từ v� những c�u đồng dao c� thể lẫn với th�nh ngữ, v� những c�u thường được gọi l� tục ngữ nhưng đ�ng c� t�n gọi kh�c.

Trong tiếng Việt, c� rất nhiều nh�m từ được h�nh th�nh theo ph�p tiệp �m, gọi l� "từ l�y". Nếu chỉ gồm hai chữ, như "lem nhem", "bập b�m", "khật kh�", th� kh�ng ai gọi l� th�nh ngữ. Nhưng một khi ch�ng tự nh�n đ�i th�nh nh�m bốn chữ, như "lem nhem luốc nhuốc", "bập b� bập b�m", "khật kh� khật khưỡng", th� cũng c� người gọi l� th�nh ngữ. Theo � t�i, ch�ng ta n�n gọi l� t� l�y.

C� những nh�m từ trong những b�i h�t trẻ con (đồng dao) được lấy d�ng trong chuyện người lớn, rồi l�u ng�y c� vẻ như th�nh ngữ. Chẳng hạn bốn chữ "dung giăng dung giẻ". Mấy chữ n�y nguy�n l� của b�i đồng dao: Giung giăng giung giẻ, dắt trẻ đi chơi... Về sau, người ta d�ng rộng, theo � vui đ�a: S�ng h�m qua, t�i gặp c� cậu ấy giung giăng giung giẻ ngo�i phố. "Giung giăng giung giẻ" ở đ�y c� nghĩa l� vui vẻ nắm tay nhau đi chơi. D� được d�ng nhiều đến đ�u, nh�m chữ n�y cũng kh�ng phải l� th�nh ngữ.

C� s�ch ngữ ph�p xếp c�u "Gần b�n m� chẳng h�i tanh m�i b�n" v�o loại tục ngữ. Một cuốn ngữ ph�p kh�c tr�ch dẫn bốn chữ "c�y quế giữa rừng" từ một truyện ngắn c� � ph�n n�n cho một c� g�i xinh đẹp nết na m� lấy phải một người chồng vũ phu, v� gọi đ� l� th�nh ngữ. T�i nghĩ đ�y chỉ l� những trường hợp lẻ tẻ, chưa n�n gọi l� th�nh ngữ. N�n trả ch�ng về cho những b�i ca dao nguy�n thủy.

V� tiện đ�y, ch�ng ta cũng n�n ph�n biệt tục ngữ với những c�u gần giống: C�ch ng�n, ngạn ngữ, danh ng�n, phương ng�n.

Một điểm cần n�i ngay: Trong phạm vi n�y, chữ "ng�n" v� chữ "ngữ" l� đồng nghĩa, c� thể thay cho nhau được. Ch�ng ta quen n�i như tr�n, nhưng vẫn c� thể n�i: Tục ng�n, c�ch ngữ, ngạn ng�n, danh ngữ, phương ngữ. "Ng�n" v� "ngữ" ở đ�y đều c� nghĩa lời n�i.

Tục ngữ : Trong th�ng dụng, "tục ngữ" c�n được gọi l� "lời tục". "Tục" đ�y l� "thế tục", kh�ng phải "th� tục". Thay v� n�i "tục ngữ c� c�u", c� thể n�i "lời tục n�i rằng".

Gần mực th� đen, gần đ�n th� s�ng l� "tục ngữ. Nhưng "đen như mực", "s�ng như đ�n" l� th�nh ngữ. Xin nhắc lại v� nhấn mạnh: Tục ngữ c� � b�nh phẩm, ph� ph�n, khuy�n bảo, hướng dẫn. Th�nh ngữ chỉ m� tả, đ�nh gi�, thường l� qua so s�nh.

C�ch ng�n : Chắc c�c bạn cao tuổi c�n nhớ những ng�y c�n học ở bậc sơ học? Hằng ng�y, tr�n bảng đen, ngo�i nh�m chữ ghi số học sinh, số hiện diện, số khiếm diện, v� ng�y th�ng, thầy gi�o c�n ghi những c�u, đại để như: - Ti�n học lễ, hậu học văn; - Đ�i cho sạch, r�ch cho thơm... Trong những cuốn lu�n l�, tập đọc, cũng c� ghi những c�y ấy. Đ�y l� những c�u c�ch ng�n.

"C�ch" c� nghĩa l� "c�ch thức". C�ch ng�n l� lời n�i mẫu mực, đ�ng noi theo.

Ngạn ngữ : L� lời của người xưa c�n truyền lại. Tất nhi�n phải l� "lời hay � đẹp", chớ chỉ l� xưa kh�ng th�i, th� xưa mấy cũng kh�ng đủ. Chẳng hạn c�u "Ch�ch khuyển phệ Nghi�u" (Ch� của t�n Ch�ch sủa vua Nghi�u; � n�i ai c� chủ nấy; vua Nghi�u l� bậc vua th�nh, nhưng con ch� kia chỉ coi một m�nh Đạo Ch�ch l� chủ, n�n sủa vua Nghi�u). C�u n�y chỉ c� nghĩa thực dụng, kh�ng được coi l� "ngạn ngữ". Nhưng những c�u sau đ�y th� được coi l� ngạn ngữ: - Điểu tận cung t�ng, thố tử cẩu phanh (Hết chim th� cung bị đem cất, thỏ chết th� ch� săn bị l�m thịt; � n�i th�i đời bội bạc); - Ph� nhuận ốc, đức nhuận th�n (Của cải l�m cho nh� cửa th�nh đẹp đẽ; đức độ khiến con người trở n�n tươi tắn).

Kh�ng c� qui luật n�o qui định, nhưng thường được coi l� ngạn ngữ những c�u � nghĩa thật h�m s�c. Cụ thể l� những c�u kh�ng d�i lắm.

Danh ng�n: L� những lời n�i hay v� đ�ng đến mức s�u sắc, được truyền tụng, được người đương thời v� hậu thế nhắc lại. Danh ng�n l� của danh nh�n. Một lời n�i tuy hay, nhưng của một người kh�ng nổi tiếng, kh� trở th�nh danh ng�n. Cũng vậy, một người nổi tiếng, nhưng l�c ngẫu hứng n�i một c�u g� đ�, xảo diệu về mặt tr� thuật th� c�, nhưng mẫu mực về đạo hạnh th� kh�ng, th� lời ấy cũng kh�ng được coi l� danh ng�n. Người ta c� tr�ch dẫn th� cũng l� để cười chơi m� th�i.

Một đặc điểm của danh ng�n, c� thể d�ng để ph�n biệt với c�ch ng�n, ngạn ngữ, l� biết người ph�t biểu. Tr�ch dẫn danh ng�n, lu�n lu�n phải ghi t�n người n�i, c� khi c�n phải ghi ho�n cảnh n�i nữa. T�m lại, tục ngữ, c�ch ng�n, ngạn ngữ l� khuyết danh, nhưng danh ng�n l� của ri�ng một người. Cũng như ca dao l� của chung, nhưng những c�u thơ d� c� nhiều phong vị d�n gian m� biết được t�c giả l� ai, th� vẫn kh�ng xếp v�o ca dao được.

Phương ng�n: Ng�y nay, c� một số từ điển v� s�ch ngữ ph�p d�ng từ n�y để gọi tiếng ri�ng của một địa phương, giống như từ "phương ngữ". S�ch của người Trung-Quốc cũng d�ng "phương ng�n" theo nghĩa n�y.

Nhưng ng�y trước, ch�ng ta đ� d�ng từ "phương ng�n" theo nghĩa "danh ng�n". Trường hợp n�y, nếu viết chữ H�n, chữ "phương" phải viết với bộ "thảo", c� nghĩa l� "thơm". Phương ng�n l� lời n�i thơm tho, đậm vị đạo đức, đ�ng lưu truyền.

Những c�u tục ngữ, ngạn ngữ, c�ch ng�n... đều l� th�nh phần cố cựu của tiếng Việt. Nhưng cũng giống như ti�n tổ cao đời đối với con ch�u ng�y nay, biết l� d�ng d�i, nhưng kh�ng biết kỹ. C� khi c�n hiểu sai.

Xin dẫn một �t trường hợp phổ biến:

- Nghe bốn chữ "đầu tắt mặt tối", ai cũng hiểu l� � muốn n�i "l�m việc quần quật suốt ng�y", nhưng "mặt tối" th� c�n luận nghĩa được (l� bận "tối tăm mặt mũi" chăng?), c�n "đầu tắt" l� c�i g�?

- Để chỉ một c�ch n�i năng cộc lốc, nghe kh�ng thuận tai, người ta hay d�ng th�nh ngữ "d�i đục chấm mắm c�y". Nhưng ai lại lấy c�i "d�i đục" m� chấm v�o mắm l�m g�?

(D�i đục l� một dụng cụ thợ mộc v� cũng l� vật gia dụng, bằng gỗ thật cứng [trắc chẳng hạn], to bằng bắp tay, d�i hơn hai gang, d�ng đ�nh l�n c�n đục để lưỡi đục xắn v�o gỗ. Tục ngữ c� c�u: D�i đ�nh đục, đục đ�nh săng [săng l� gỗ]. Nghĩa b�ng l� cấp cao �p xuống cấp giữa, cấp giữa �p xuống cấp dưới).

C� phải nguy�n thủy c�u n�y l� "d�i đục gi� mắm c�y", rồi l�u ng�y chuyển biến th�nh ra kh� hiểu chăng?

Trong bếp của người Việt ng�y xưa, d�ng để gi� ti�u, gi� cua... người ta c� một c�i cối nhỏ bằng s�nh hoặc bằng gỗ, v� một c�i ch�y gỗ, h�nh d�ng v� k�ch thước cũng tương tự như c�i d�i đục của thợ mộc. Trong l�c cần gi� thứ g� đ�, m� chỉ c� c�i cối, th� người ta cũng c� thể lấy d�i đục l�m ch�y, cũng giống như tạm d�ng c�n dao vậy. D�i đục đầu kh�ng tr�n như ch�y, tất nhi�n kết quả kh�ng tốt: Gi� c�y th� c�y kh�ng nhuyễn, lại khua lộp cộp kh�ng �m. Chẳng kh�c mấy với những lời lẽ th� kệch, kh�ng lọt tai thi�n hạ.

- Để tả d�ng đi lảo đảo, xi�u vẹo, ch�n nọ vấp v�o ch�n kia của người say rượu, người ta hay d�ng th�nh ngữ "ch�n nam đ� ch�n xi�u", hoặc "ch�n đăm đ� ch�n chi�u". "Đăm", "chi�u" đều l� từ cổ, c� nghĩa l� "b�n mặt", "b�n tr�i". "Ch�n đăm đ� ch�n chi�u" c� nghĩa ch�n mặt vấp v�o ch�n tr�i. "Nam" v� "xi�u" trại ra từ "đăm" v� "chi�u".

Nhưng ng�y nay, ch�ng ta c� từ gh�p "đăm chi�u" để tả d�ng vẻ của một người đang lắng tr� suy tư. Sự chuyển nghĩa thật l� kh� hiểu. Tại sao nguy�n nghĩa l� "b�n phải b�n tr�i" m� lại c� thể chuyển th�nh "suy nghĩ"? C� phải suy nghĩ nhiều qu�, đến nỗi qu�n cả ngoại cảnh, kh�ng để � g� đến b�n tr�i b�n mặt của m�nh kh�ng? Xin thử đặt một c�u "giả tưởng": - Kẻ cuồng sĩ ngồi trầm ng�m b�n �n thư suốt mấy trống canh, kh�ng l� g� đến hai ph�a đăm chi�u.

Qua nhiều đời, "suy nghĩ nhiều = kh�ng đăm chi�u" biến th�nh "đăm chi�u = suy nghĩ". C� l� chăng?

D� sao, từ c�i d�ng đi như muốn ng� m� trở th�nh trầm lắng suy tư, tức l� đ� đổi từ vật chất sang tinh thần, từ anh say rượu th�nh nh� hiền triết, r� r�ng l� biến dở th�nh hay. Vậy, ch�ng ta cứ y�n t�m d�ng "đăm chi�u" theo nghĩa ng�y nay, kh�ng cần bận t�m tới c�i xuất xứ của n� nữa.

- Ng�y nay ai cũng hiểu th�nh ngữ "lang bạt kỳ hồ" (hoặc gọn hơn: lang bạt) theo nghĩa "r�y đ�y mai đ�". Nhưng nghĩa nguy�n thủy của mấy chữ n�y kh�c hẳn, gần như ngược lại.

Đ�y l� một th�nh ngữ của cổ văn Trung-Quốc. Kinh Thi c� c�u tả d�ng một con s�i gi� như vầy: Lang bạt kỳ hồ, t�i tr� kỳ vĩ (s�i bước tới th� đạp c�i yếm cổ, bước lui th� vướng c�i đu�i). Cũng giống như mấy chữ "tấn thối lưỡng nan". Du nhập v�o tiếng Việt, nghĩa gốc mất hẳn. Chuyện của một con s�i gi� được chuyển giao cho một con người trẻ (C� ai gi� m� c�n lang bạt kỳ hồ nổi). V� nghe rất văn chương? Văn chương hơn cả c�u "tang bồng hồ thỉ"!

- Vắng chủ nh� g� mọc đu�i t�m: G� con được chừng hơn th�ng, ở đu�i c� l� (nh�) ra mấy c�i l�ng cứng tr�ng giống như đu�i con t�m, gọi l� "g� l� đu�i t�m". Qua giai đoạn n�y, g� mới trở th�nh "g� gi�". Nhưng kh�ng hiểu sao, g� gi� chỉ được kể l� thịt mềm ăn ngon, c�n g� m� mọc đu�i t�m th� được coi l� sung sướng vui chơi thỏa th�ch. Hễ chủ nh� đi vắng, th� g� thừa dịp mọc đu�i t�m ra. Hễ người lớn đi vắng, th� con n�t tha hồ chơi đ�a nghịch ph�; hễ chủ đi vắng th� người l�m ngồi chơi, bỏ b� c�ng việc... Nghĩa b�ng dễ hiểu, nhưng nghĩa đen kh�ng dễ. L�ng đu�i của g� đến độ th� mọc, chớ đ�u phải muốn mọc l�c n�o cũng được?

Nghe hơi v� l�, n�n đ� c� người chữa lại: Vắng chủ nh� g� vọc ni�u t�m. C� l� hơn một ch�t, nhưng cũng chưa phải l� ho�n to�n. Ni�u t�m ở đ�u m� sẵn để cho g� vọc như thế? Lại chữa lần nữa: Vắng chủ nh� g� bươi bếp. Nghe rất c� l�, nhưng hiền l�nh, v� thường thấy qu�.

- Theo quan niệm cũ, hai b�n th�ng gia c�n xứng với nhau về gia thế, th� được gọi l� "m�n đăng hộ đối". Nhiều người n�i như vậy. Nhưng như vậy l� trật đấy c�c bạn. Phải l� "m�n đương hộ đối" mới đ�ng chữ. Chữ "đương" n�y c� thể đọc l� "đang", nhưng kh�ng thể đọc l� "đăng".

"M�n" l� cửa lớn, "hộ" l� cửa nhỏ; "đương" v� "đối" đều c� nghĩa l� địch lại được. B�n nh� trai c� "m�n" th� b�n nh� g�i phải c� "m�n" để đương lại; b�n nh� g�i c� "hộ" th� b�n nh� trai phải c� "hộ" để đối lại. Nếu kh�ng, th� kh�ng đương đối. Như trong cuộc đấu ph� với Vương Khải, Thạch S�ng thiếu c�i mẻ kho, kh�ng đương đối, th�nh phải thua vậy.

Tuy nhi�n, "m�n đăng hộ đối" nghe đ� quen tai. Bạn n�o kh�ng th�ch đổi, th� xin cứ n�i như cũ. C�i sai cũng chẳng c� g� nghi�m trọng.

Cuối c�ng, ch�ng ta thảo luận một ch�t về vần điệu của những c�u th�nh ngữ, tục ngữ...

Tiếng Việt nhiều �m điệu, người Việt th�ch l�m thơ, th�ch c�ch n�i c�n xứng, n�n những c�u truyền thống của ch�ng ta nhiều c�u c� vần, c� đối; nếu kh�ng, th� cũng phải nhịp nh�ng, để nghe cho thuận tai.

C� đối: D�i lưng tốn vải; ngồi kh�ng ăn sẵn; văn hay chữ tốt; s�ng tai họ điếc tai c�y; c� c�ng m�i sắt c� ng�y n�n kim.

C� vần: D�y c� ra d�y muống; đi hỏi gi�, về nh� hỏi trẻ; biết th� thưa th� thốt, kh�ng biết th� dựa cột m� nghe; đi với Phật mặc �o c� sa, đi với ma mặc �o giấy.

C� vần c� đối: Năm cha ba mẹ; gi� đ�n non lẽ; của chồng c�ng vợ; sai một li đi một dặm; ăn theo thuở ở theo thời.

C�u đặt c� vần, c� đối th� đọc l�n nghe �m tai. Nhưng trong thực tế, sự chuộng thuận �m cũng c� khi l�m cho kh� hiểu.

Nghe c�u "c�i nết đ�nh chết c�i đẹp", ai cũng hiểu theo nghĩa đối với người đ�n b�, đức hạnh quan trọng hơn dung nhan. Nhưng sao kh�ng n�i "c�i nết qu� hơn c�i đẹp" m� lại phải d�ng chữ "đ�nh chết"? N�i như vậy, kh�ng sợ c� người hiểu lầm rằng đ�n b� hễ c� nết na th� nhan sắc mất đi hay sao? Chẳng qua người đặt muốn d�ng chữ "chết" để cho c� vần với chữ "nết" ph�a trước.

Nghe c�u "gi� k�n kẹn hom", ai cũng nghĩ ngay đến trường hợp của một người (thường l� đ�n b�) qu� kh� t�nh trong việc chọn lựa người bạn trăm năm, cuối c�ng phải sống c� độc, hoặc gặp phải một người phối ngẫu kh�ng ra g�. Nghĩa b�ng l� như thế, xưa nay kh�ng ai thắc mắc. Nhưng c�u n�y chắc chắn c� nghĩa đen. Về nghĩa đen, "gi� k�n" c� nghĩa l� "để k�n tằm qu� l�u tr�n hom, kh�ng gỡ đem ươm đ�ng ng�y"; nhưng "kẹn hom" nghĩa l� g�? C� phải l� "l�m vướng hom, khiến hom kh�ng đủ chỗ cho lứa tằm ch�n tiếp theo l�n l�m k�n kh�ng"? "Kẹn" c� thể l� chữ cổ, c� nghĩa l� "chật", nhưng kh�ng lấy g� l�m chắc. T�m lại c�u "gi� k�n kẹn hom" đ� th�ng dụng theo nghĩa ước lệ, nhưng truy nguy�n, cũng kh�ng chắc hiểu đ�ng. Chẳng qua từ đời thuở n�o, người đặt muốn d�ng chữ "kẹn" để c� vần với chữ "k�n", kh�ng lường được chuyện con ch�u đời sau kh�ng hiểu nổi chữ ấy.

Thử đối chiếu với một c�u cấu tr�c rất giống v� nghĩa kh� gần: - Gi� n�o đứt d�y. Muốn gộp nhiều c�y gỗ th�nh một b� chặt, hoặc k�o hai c�y trụ lại gần nhau, m� sức tay kh�ng kh�ng l�m nổi, người ta buộc một v�ng d�y thật bền rồi d�ng một đoạn c�y ngắn m� xoắn, c�ng xoắn th� c�ng chặt, nhưng nếu xoắn qu� mức th� d�y sẽ đứt. L�m như vậy, tiếng nh� nghề gọi l� "n�o"; "gi� n�o" l� n�o qu� căng. R�t kinh nghiệm từ một c�ng việc cụ thể, �ng b� ch�ng ta khuy�n con ch�u kh�ng n�n qu� găng trong c�ch khu xử, để tr�nh đổ vỡ, tr�nh hỏng việc.

Thử đặt một giả thuyết: Nếu như với c�u n�y, người n�i cũng chuộng h�nh thức, muốn cho chữ "n�o" c� vần với một chữ đi sau, th� c�u c� thể l� "gi� n�o nẹo d�y", v� ng�y nay, ch�ng ta cũng phải t�m hiểu xem chữ "nẹo" c� phải l� chữ cổ v� c� nghĩa l� đứt hay kh�ng.

Cũng may, trong số th�nh ngữ tục ngữ, những c�u v� c� vần m� trở n�n kh� hiểu cũng kh�ng bao nhi�u. Gặp những trường hợp ấy, ch�ng ta chỉ n�n d�ng v� hiểu theo nghĩa b�ng đ� được mọi người chấp nhận, kh�ng cần mất c�ng t�m về tận gốc.

Tuy nhi�n, kh�ng phải tất cả những chữ nghe lạ tai đều kh� hiểu đối với mọi người. C� thể trong th�ng dụng kh�ng gặp, nhưng trong tự điển c�. C� thể người miền n�y kh�ng hiểu, nhưng người miền kh�c hiểu. Chẳng hạn, với c�u "kh�n sống mống chết", c�c tự điển đ� ch� nghĩa "mống" l� "dại; với c�u "kh�n cho người d�i dại cho người thương", c�c tự điển đ� ch� nghĩa "d�i" l� "nể sợ". Người miền Nam nghe c�u "ăn n�n đọi, n�i n�n lời" c� thể lấn cấn với chữ "đọi", nhưng người Huế th� hiểu ngay l� "b�t".

Ngo�i ra, c�n c� những trường hợp trong c�u chữ n�o cũng th�ng dụng, nhưng v� ch�ng đổi chỗ cho nhau, hoặc nguy�n l� đi cặp b�y giờ t�ch ra, n�n trở th�nh kh� hiểu.

Ch�ng ta quen n�i "lời ăn tiếng n�i", rồi v� qu� quen, kh�ng thắc mắc "lời ăn" l� g�. Điểm lạ tai n�y do việc t�ch chữ: "Ắn" v� "n�i" nguy�n đi cặp với nhau th�nh "ăn n�i", v� chữ "ăn" mất nghĩa đi, chỉ c�n chữ "n�i" giữ nghĩa; "ăn n�i" tức l� "n�i". Nếu đặt theo kiểu kh�ng t�ch chữ, th� c�u sẽ l� "lời tiếng ăn n�i". Nhưng n�i như vầy, nghe sao thuận tai?

Ch�ng ta quen n�i "vạch mặt chỉ t�n", nhưng c� thể nguy�n thủy c�u n�y l� "chỉ mặt vạch t�n"; cũng như c�u "ăn kh�ng ngồi rồi" (rồi = rổi), c� thể nguy�n thủy l� "ngồi rồi ăn kh�ng". D�ng quen, người đời sau đảo lại cho thuận miệng.

Đặc t�nh của c�ch n�i thuận miệng c� cả hay lẫn kh�ng hay. Hay l� nghe nhịp nh�ng linh động. Kh�ng hay l� mở cửa cho c�ch n�i bu�ng tuồng. Chẳng hạn như từ c�u "b�n trời kh�ng văn tự", người th�ch kiểu n�i thuận miệng liền đổi ra c�u "b�n trời kh�ng mời thi�n l�i"; từ c�u hai vế "kh�n cho người d�i, dại cho người thương", c� người đ� k�o th�m vế thứ ba "đừng dở dở ương ương ch�ng gh�t".

Thành ngữ và tục ngữ khác nhau thế nào?

“Thành ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó”. “Tục ngữ là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân”. Một giọt máu đào hơn ao nuớc lã.

Thành ngữ là gì lớp 5?

Thành ngữ là sự kết hợp của các cụm từ được sử dụng để diễn đạt một ý cụ thể, thường không tạo thành một câu hoàn chỉnh từ ngữ pháp, và thường không thể thay đổi hoặc chỉnh sửa dễ dàng về ngôn ngữ. Thành ngữ thường là các cụm từ cố định và mang tính biểu tượng, cô đọng, và hình ảnh rõ ràng.

Ví dụ về thành ngữ là gì?

Một số ví dụ cụ thể về thành ngữ và tục ngữ: Thành ngữ: Ăn trắng mặc trơn; Ăn trên ngồi trốc; Dốt đặc cán mai; Đơn thương độc mã; Mẹ tròn con vuông; Chân cứng đá mềm, Qua cầu rút ván; Già đòn non nhẽ...

Thành ngữ có nghĩa là gì?

Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.