Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa năm 1994 năm 2024

Những thành tựu mà nhân dân ta thu được trong quá trình đổi mới, sự nhận thức mới về thời đại, về vai trò của khoa học, công nghệ và vai trò của con người trong phát triển kinh tế - xã hội đương đại, cũng như những khó khăn và cả những sai lầm khó tránh, v.v.. đã được Đảng ta đúc kết thành những bài học có giá trị trong việc chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại được coi là nhiệm vụ trọng tâm để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp trong khoảng vài chục năm. Sự đánh giá khách quan kinh nghiệm của các nước xung quanh chúng ta đã công nghiệp hóa thành công góp phần giúp Đảng ta, qua các kỳ đại hội, đúc kết thành lý luận công nghiệp hóa đầy đủ hơn ở một đất nước kém phát triển trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng.

Từ góc nhìn lịch sử có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng, sự đánh giá của Đảng về tính tất yếu, vị trí, vai trò, mục tiêu, định hướng phát triển hay nói chung là tầm quan trọng của công cuộc công nghiệp hóa đối với đất nước ta là khá nhất quán và xuyên suốt. Tuy nhiên, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, và cả do sự hạn chế về trình độ nhận thức, cho nên trong một giai đoạn khá dài chúng ta đã xác định sai bước đi, “trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết” đúng như Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) nhận định.

Tại Đại hội III (tháng 9-1960) Đảng ta coi “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”(1). Vì vậy chủ trương của Đảng ta về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại”(2). Chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” đó của Đại hội đã được đôn đốc thực thi ráo riết trong thực tế suốt hàng chục năm lại do tác động của chiến tranh và cơ chế tập trung bao cấp nên tuy có đạt được một số kết quả khiêm tốn, song vì quá chú trọng đến quy mô, đến mặt lượng, đến nhanh, nhiều, rẻ mà không dựa vào khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, nên hiệu quả không cao, năng suất thấp, lãng phí nguyên vật liệu, sản phẩm kém chất lượng, đã đẩy cả nền kinh tế và xã hội vào tình trạng khó khăn kéo dài...

Đại hội IV của Đảng (tháng 12-1976) khi đề ra đường lối để phát triển đất nước, một mặt, tiếp tục khẳng định phải thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mặt khác, đã có sự điều chỉnh nhất định, coi trọng hơn việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, cụ thể là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” nhưng về thực chất vẫn nặng về xây dựng và phát triển công nghiệp nặng, nghĩa là tư duy về nội dung công nghiệp hóa chưa có sự thay đổi căn bản. Cụ thể là phần lớn vốn đầu tư và viện trợ của nước ngoài đều được tập trung xây dựng các nhà máy có quy mô lớn trong khi lại lãng phí những cơ sở sản xuất sẵn có ở miền Nam trước đây với cách tổ chức, quản lý và công nghệ tiên tiến lại có cả thị trường quốc tế đã khá quen thuộc. Hơn thế, trong thực tế, việc phát triển công nghiệp nặng vẫn chưa trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Đó cũng là lý do giải thích vì sao sau Đại hội IV của Đảng không những sản xuất không phát triển, lương thực, thực phẩm cùng với hàng tiêu dùng ngày càng thiếu thốn hơn mà đất nước bắt đầu rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội và ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Trước tình thế đó, Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982) khi đề cập đến những nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt và những năm tiếp theo đã phải nhấn mạnh: cần tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Như vậy, thực tế cuộc sống đã dần dần buộc chúng ta phải điều chỉnh quan niệm và nội dung công nghiệp hóa, song vẫn khẳng định việc tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.

Nghị quyết Đại hội V, như Đại hội VI (tháng 12-1986) nhận định, đã không được thực hiện nghiêm túc, nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển… Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách…; còn ham xây dựng nhiều công trình quy mô lớn. Vì vậy, Đại hội VI xác định phải “tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”, nhưng trước hết “phải tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”, trong đó có “vị trí hàng đầu của nông nghiệp”.

Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động; các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã lần lượt sụp đổ; chúng ta không còn nhận được sự viện trợ và giúp đỡ to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa, do vậy, cũng không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ. Lần đầu tiên, Đại hội VII của Đảng xác định, “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”(3). Đặc biệt, Đại hội khẳng định rằng, quan niệm mới về công nghiệp hóa theo hướng hiện đại “đòi hỏi có chính sách công nghệ thích hợp, tận dụng được lợi thế của nước đi sau trong điều kiện mới của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới”(4). Tiến hành công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại là quan điểm rất mới vào thời điểm đó. Quan điểm đó đã bao hàm việc không tách rời công nghiệp hóa với hiện đại hóa, đồng thời phải tận dụng được những thành tựu, những tri thức mới nhất của khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1-1994) tiếp tục coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu, là con đường khả dĩ duy nhất có thể đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước xung quanh, là cách thức để ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Hội nghị một lần nữa khẳng định, “chúng ta tiến hành công nghiệp hóa không theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan mà Đại hội VI đã phê phán. Công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân”(5).

Như vậy, khái niệm công nghiệp hóa đã được bổ sung thêm những nội dung mới, không chỉ nhằm tăng tỷ trọng và tốc độ của sản xuất công nghiệp so với các ngành sản xuất khác, mà điều quan trọng là đổi mới căn bản về công nghệ, coi những công nghệ mới, tiên tiến là nền tảng của sự tăng trưởng nhanh nhằm nâng cao hiệu quả, và, đặc biệt hơn nữa là đã gắn công nghiệp hóa theo nội dung mới ấy với sự phát triển lâu bền của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Việc gắn công nghiệp hóa với sự phát triển lâu bền, hay phát triển bền vững, là một sự thay đổi nhận thức rất quan trọng, là một bước ngoặt trong xác định quan điểm phát triển; từ chỗ chỉ chú trọng đến GDP, đến tăng trưởng kinh tế đơn thuần sang việc chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, sang việc duy trì các điều kiện cho sự phát triển tiếp theo trong tương lai.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) xác định “mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”(6), ra sức phấn đấu đến năm 2020 “đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Với 6 quan điểm và những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; chọn và tập trung vào một số ngành mũi nhọn đòi hỏi nhiều chất xám nhưng cần ít vốn; ưu tiên các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin; ngành khai thác và chế biến dầu - khí, du lịch, khái niệm công nghiệp hóa đã được cụ thể hóa phù hợp với yêu cầu vừa tận dụng được thế mạnh sẵn có của nước ta, vừa đón nhận thời cơ đi vào các ngành cần ưu tiên phát triển theo xu thế của thời đại. Chính những quan điểm này đã đưa đất nước tiến lên theo các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đưa ra quyết định quan trọng là “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa… nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Dứt khoát từ bỏ quan niệm công nghiệp hóa cổ điển, nhưng để thành công với công nghiệp hóa theo quan niệm mới, để có thể rút ngắn được thời gian và khoảng cách với các nước đi trước, thì cần có nền tảng và động lực mới. Đại hội IX một lần nữa khẳng định, phải “coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; đồng thời yêu cầu công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển, nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta...

Muốn có sự phát triển bền vững trong suốt quá trình công nghiệp hóa thì tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phải sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phải bảo vệ và cải thiện được môi trường. Cho nên, phải chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế - xã hội, coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển. Cần lưu ý rằng, nếu như trước đây khi bàn về phát triển kinh tế nói chung, xây dựng các cơ sở công nghiệp nói riêng, chúng ta đã thường xuyên đề cập đến việc chú ý bảo vệ môi trường, nhưng dường như mới chỉ về những phần việc riêng biệt, tách rời nhau, thì tại Đại hội IX, yêu cầu gắn việc bảo vệ mội trường với quy hoạch phát triển kinh tế được coi là cơ sở, là giải pháp quan trọng để đánh giá tính đúng đắn, tính khoa học và tính khả thi của các giải pháp phát triển khi tiến hành công nghiệp hóa. Do vậy, Đại hội yêu cầu kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường theo hướng phát triển bền vững; tiến tới bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường có chất lượng tốt...

Mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển nêu ra tại Đại hội IX của Đảng được Đại hội X coi là mục tiêu trực tiếp với sự bổ sung nhằm rút ngắn về mặt thời gian là: sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong điều kiện hiện nay, muốn sớm thực hiện được mục tiêu đó thì không có cách nào khác hơn là phải: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức...; “phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; phải “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn”.

Tiếp thu, chắt lọc, phát triển tất cả những điểm hợp lý và quan trọng nhất của những luận điểm được các kỳ đại hội trước nêu lên, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ghi rõ: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”(7). Đặc biệt, Đại hội XI đã bổ sung và làm sâu sắc thêm quan điểm phát triển bền vững, gắn phát triển bền vững với phát triển nhanh, coi phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển và trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội khẳng định: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”(8).

Việc Đại hội XI nhấn mạnh đến sự phát triển bền vững mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội là phù hợp với tinh thần của thời đại, với sự nhận thức chung của các quốc gia và của loài người sau một giai đoạn dài lấy sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần làm mục tiêu duy nhất đã dẫn đến không chỉ sự tàn phá thiên nhiên, hủy hoại môi trường sống của chính con người, mà còn tạo ra sự bất công, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, các dân tộc, giữa các tầng lớp xã hội, giữa các thế hệ. Ngày nay, cần phải hiểu “phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu của họ”(9).

Phát triển bền vững là sự phát triển kết hợp chặt chẽ đồng thời ba mục tiêu: phát triển kinh tế nhanh; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, lấy chỉ số phát triển con người làm thước đo cao nhất của sự phát triển; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường sống, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu của hiện tại, vừa không làm tổn hại khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai. Nói tóm lại, phát triển bền vững là sự phát triển xã hội có sự kết hợp hài hòa ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Cho nên, trong sự phát triển bền vững, Đảng ta yêu cầu: “tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”, đồng thời “gắn mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội”.

Dễ dàng nhận thấy rằng, những yêu cầu được Đại hội XI của Đảng nêu ra nhằm đạt được sự phát triển bền vững ở tất cả các lĩnh vực trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại là rất trúng, khá cụ thể và khoa học. Để thực hiện được các yêu cầu đó, trước hết chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật, khắc phục những thiếu sót, những khuyết điểm, thậm chí cả những sai lầm đã mắc phải trong phát triển công nghiệp thời gian vừa qua, trong phát triển kinh tế nói chung, trong lĩnh vực khai thác, sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đồng thời không để xảy ra những sai lầm mới.

Chúng ta không thể sớm thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển nếu không tiến hành công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; nếu không chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang kinh tế công nghiệp hiện đại và dịch vụ, đặc biệt là nếu không từng bước chuyển sang và không mạnh dạn dựa vào nền kinh tế tri thức. Để phát triển các khu công nghiệp, dù là công nghiệp hiện đại dựa vào tri thức là chủ yếu, cũng không thể thiếu đất đai để xây dựng, nhưng đất đai lại có hạn, không sinh sôi, nảy nở thêm được.Vậy mà, những năm vừa qua việc tính toán chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai ở nhiều nơi là khá tùy tiện, thậm chí là vô trách nhiệm, chỉ chạy theo mục tiêu kinh tế trước mắt, gây lãng phí rất lớn.

Vấn nạn ô nhiễm môi trường sống là hậu quả của sự kém hiểu biết, sự thiếu cân nhắc và nhất là của thái độ thờ ơ, đùn đẩy, vô trách nhiệm và cả vì những cái lợi riêng, cái lợi cục bộ của một nhóm người. Ba mươi lăm năm trước, qua khảo sát thực tế, tác giả bài viết này đã từng nhận định rằng, “khi xây dựng nhà máy, xí nghiệp chúng ta chưa chú ý đến việc bảo vệ môi trường, còn nặng tính chất tự phát, nặng về kinh tế đơn thuần chứ chưa có quy hoạch sinh thái. Trong nhận thức, ta chưa thấy rằng môi trường sống và thiên nhiên của chúng ta không chỉ thuộc về thế hệ hôm nay mà còn thuộc về nhiều thế hệ mai sau”(10). Ngày nay, dù đã có những tiến bộ nhất định, nhưng vẫn đang xảy ra tình trạng thế hệ hôm nay vay mượn và tiêu dùng quá mức được phép, quá nhiều các nguồn tài nguyên của thế hệ mai sau, nghĩa là ta đang có những việc làm đi ngược lại với quan điểm phát triển bền vững. Điều này dễ thấy nhất là trong khai thác, sử dụng các tài nguyên trong lòng đất, tài nguyên nước.

Do Luật Bảo vệ rừng không được thực thi nghiêm minh, do quyết định cho phép chuyển cái gọi là các khu rừng nghèo kiệt (thật ra có khu không nghèo kiệt chút nào) thành rừng trồng các cây công nghiệp đã bị lợi dụng và không được kiểm soát chặt chẽ mà chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng nhiều khu rừng, cả rừng nguyên sinh và rừng trồng, cả rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ bị triệt phá. Ngày càng có nhiều loài động vật và thực vật, có nguy cơ bị tuyệt chủng. Cùng với nạn phá rừng, việc phát triển ồ ạt thủy điện, nhất là thủy điện nhỏ và vừa, không dựa trên báo cáo đánh giá và thẩm định khoa học tác động môi trường chắc chắn sẽ gây hậu quả lớn là hạn hán, úng ngập và lũ lụt nặng. Hậu quả về môi trường của những hoạt động trên rất có thể sẽ tác động tiêu cực đến những thành quả kinh tế và xã hội mà công cuộc phát triển mang lại.

Thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; sử dụng tiết kiệm, hợp lý, bảo vệ tốt tài nguyên thiên nhiên và môi trường cùng với phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nói cách khác, kết hợp hài hòa, có hiệu quả ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường là những bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước, cho sự thành công của công cuộc xây dựng một xã hội với các tiêu chí, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

------

(1), (2) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam. Văn kiện Đại hội, 1960, t.1, tr.182, 182 - 183

(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 9

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 120

(5) Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1994, tr. 27

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 80

(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72, 99

(9) Dẫn theo: Lê Quý An, “Những quan điểm chủ yếu về môi trường và phát triển tại Hội nghị Rio- 92”, Tạp chí Thông tin môi trường, số 3 - 1992

(10) Nguyễn Trọng Chuẩn: “Chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Tạp chí Triết học, số 2-1977, tr. 80