Sự giống nhau giữa tố tụng tòa án và tô tụng trọng tài

1. Về mặt tính chất pháp lý

Giữa tòa án và trọng tài có những sự khác biệt rất rõ về mặt tính chất pháp lý của mỗi loại cơ quan này. Tòa án là cơ quan tư pháp của nhà nước nằm trong nhánh cơ quan tư pháp.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, tòa án được quyền nhân danh Nhà nước để thực hiện xem xét và xử lý vi phạm pháp luật nhằm mục đích duy trì trật tự công cộng và để thực hiện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà kinh doanh.

Trong khi đó, về phía các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một trong những tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang bản chất là xã hội – nghề nghiệp.

2. Về mặt thẩm quyền

*Thẩm quyền theo vụ việc:

Dưới góc độ về mặt thẩm quyền theo các vụ việc, thực tế cho thấy tòa án thường được có thẩm quyền rộng rãi hơn so với trung tâm trọng tài. Tòa án đều có thẩm quyền giải quyết gần như hầu hết tất cả các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh. Trong khi đó, khác với phía tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ có thể thay đổi, hoặc bị thu hẹp lại tùy theo từng các trung tâm trọng tài.

*Thẩm quyền theo khu vực, lãnh thổ:

Đối với phía tòa án, không phải bất kỳ vụ tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh nào cũng được phía tòa tiến hành thụ lý giải quyết. Đơn kiện sẽ chỉ được tòa án thực hiện thụ lý giải quyết khi đơn được chuyển đến nơi tòa án có đúng thẩm quyền để giải quyết.

Ngược lại, đối với trong tố tụng trọng tài sẽ không đặt ra các vấn đề về thẩm quyền hay về mặt lãnh thổ. Các bên đang tranh chấp sẽ có quyền được lựa chọn đối vpowis bất cứ trung tâm trọng tài nào để tiến hành giải quyết cho mình theo ý muốn và sự tín nhiệm của họ.

NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA TỐ TỤNG TÒA ÁN VÀ TỐ TỤNG TRỌNG TÀI

  • Đăng ngày: 21/06/2019

Trong hoạt động kinh doanh thương mại, nếu có phát sinh tranh chấp mà các bên không tự hòa giải, thương lượng được với nhau thì việc một hoặc các bên đưa vụ việc tranh chấp ra cơ quan tài phán để giải quyết là cần thiết. Hiện nay, bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự tại cơ quan Tòa án [thường được áp dụng] còn có phương thức giải quyết tranh chấp theo thủ tục tố tụng trọng tài thương mại và phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Tuy nhiên trên thực tế, hiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại [cơ sở pháp lý là Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2017] ít được các bên lựa chọn vì một số lý do.

Trong phạm vi bài viết này, TRILAW xin tóm lược một số điểm khác nhau cơ bản giữa phương thức giải quyết tranh chấp bằng thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án [sau đây gọi tắt là “Tố tụng Tòa án”] và phương thức giải quyết tranh chấp bằng thủ tục tố tụng trọng tài thương mại [sau đây gọi tắt là “Tố tụng Trọng Tài”].

Về tính chất pháp lý của cơ quan Tòa án, Trung tâm trọng tài

Tòa án là cơ quan Nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp của Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp [chủ yếu là xét xử] và khi xét xử thì nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Trung tâm trọng tài là tổ chức mang tính chất xã hội - nghề nghiệp, được thành lập khi có ít nhất năm sáng lập viên là công dân Việt Nam có đủ điều kiện là Trọng tài viên đề nghị thành lập và được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp giấy phép thành lập.

Về thẩm quyền theo lãnh thổ và sự lựa chọn của các bên

Về thẩm quyền theo lãnh thổ, trong Tố tụng Tòa Án, thẩm quyền của Tòa án được quy định khá rõ ràng, chi tiết trong Bộ luật tố tụng dân sự và nguyên đơn chỉ được nộp đơn khởi kiện đến đúng cơ quan Tòa án đã được pháp luật quy định, ngoại trừ một số trường hợp [rất hạn chế] được Bộ luật tố tụng dân sự cho phép nguyên đơn được lựa chọn Tòa án. Ngược lại, trong Tố Tụng Trọng Tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn bất cứ Trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp. Thông thường, việc chọn Trung tâm trọng tài nào là tùy thuộc vào uy tín của Trung tâm trọng tài đó, mức phí trọng tài mà các bên phải thanh toán và sự thuận tiện cho các bên khi tham gia tố tụng.

Trên nguyên tắc tôn trọng sự lựa chọn của các bên, trong Tố tụng Trọng Tài các bên được quyền lựa chọn Trọng tài viên [một hoặc nhiền người] để giải quyết vụ việc tranh chấp. Điều này hoàn toàn khác với Tố tụng Tòa án theo đó các bên không được quyền lựa chọn Thẩm phán mà Thẩm phán giải quyết vụ việc sẽ do lãnh đạo Tòa án phân công.

Về các giai đoạn tố tụng

Trong Tố tụng Tòa án, chế độ 02 cấp xét xử [sơ thẩm, phúc thẩm] được bảo đảm. Điều này có nghĩa rằng phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm không mặc nhiên có hiệu lực pháp luật mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Ngoài ra, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Ngược lại, trong Tố tụng Trọng tài, theo quy định tại Điều 4 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 [“Luật TTTM 2010”] thì phán quyết trọng tài là chung thẩm [trừ trường hợp phán quyết trọng tài bị Tòa án tuyên hủy theo đúng quy định của pháp luật]. Đây cũng là điều khác biệt cơ bản mà các bên cần đặc biệt lưu ý khi thỏa thuận chọn phương thức giải quyết tranh chấp.

Về thời gian giải quyết tranh chấp

Như trình bày ở trên, do Tố tụng Tòa án phải qua nhiều giai đoạn tố tụng như sơ thẩm, phúc thẩm và có thể là giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nên thời gian để giải quyết dứt điểm vụ án sẽ phải kéo dài hơn rất nhiều so với Tố tụng Trọng tài. Đây cũng là lý do để các bên lựa chọn Tố tụng Trọng tài thay vì Tố tụng Tòa án.

Về địa điểm và phương thức giải quyết tranh chấp

Trong Tố tụng Tòa án, thông thường việc xét xử được thực hiện công khai tại phòng xét xử của Tòa án [ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ theo luật định được xét xử kín]. Ngược lại, trong Tố tụng Trọng tài thì địa điểm giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận hoặc nếu không có thỏa thuận thì do Hội đồng trọng tài quyết định. Bên cạnh đó, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Đây cũng là lý do để các bên lựa chọn phương thức Tố tụng Trọng tài thay vì Tố tụng Tòa án nhằm mục đích bảo vệ bí mật kinh doanh và hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp mình khi bắt buộc phải tham gia tố tụng.

Về chi phí cho việc giải quyết tranh chấp

Khi nộp đơn khởi kiện cho Tòa án thì sau khi đơn kiện đã được Tòa án đồng ý tiếp nhận, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí của vụ kiện [hiện nay mức án phí/tạm ứng án phí được thực hiện theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội]. Sau đó, khi xét xử thì Tòa án sẽ tuyên số tiền án phí mà đương sự phải chịu [theo nguyên tắc bên thua kiện hoặc bị Tòa án bác yêu cầu thì phải chịu án phí]. Trong trường hợp nguyên đơn thắng kiện toàn bộ thì không phải chịu án phí và sẽ được cơ quan Thi hành án hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Như vậy, nếu thắng kiện thì nguyên đơn sẽ không bị mất khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Khác với Tố tụng Tòa án, trong Tố tụng Trọng tài khi nộp đơn khởi kiện thì nguyên đơn phải nộp toàn bộ phí trọng tài cho Trung tâm trọng tài. Mức phí trọng tài do Trung tâm trọng tài quy định [Trung tâm trọng tài càng uy tín thì mức phí càng cao]. Trên thực tế, mức phí trọng tài mà nguyên đơn phải nộp sẽ cao hơn nhiều so với số tiền tạm ứng án phí trong Tố tụng Tòa án.

Điều cần lưu ý là: trong Tố tụng Trọng tài khi thắng kiện thì nguyên đơn không được Trung tâm trọng tài hoàn lại phí trọng tài đã nộp mà bị đơn có trách nhiệm thanh toán lại cho nguyên đơn số tiền này. Như vậy, theo nguyên tắc này, trường hợp nguyên đơn thắng kiện nhưng phía bị đơn không có khả năng thi hành án thì xem như nguyên đơn sẽ bị mất [thêm] số tiền phí trọng tài đã nộp. Đây là điều nguyên đơn cần cân nhắc trước khi khởi kiện ra Trọng tài.

Về thẩm quyền của Thẩm phán/Trọng tài viên trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ; triệu tập người làm chứng

Trong quá trình tố tụng, Thẩm phán/Trọng tài viên có thể tiến hành các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ, triệu tập người làm chứng… Tuy nhiên, tính cưỡng chế [bắt buộc phải thi hành] là có sự khác nhau giữa 02 phương thức tố tụng này. Cụ thể, trong Tố tụng Tòa án, việc cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án là nghĩa vụ bắt buộc. Nếu cố tình vi phạm thì có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật [Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015]. Trong khi đó, tính cưỡng chế trong Tố tụng Trọng tài thì không được như vậy, và trong nhiều trường hợp, Trọng tài viên sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền hỗ trợ [Điều 46 Luật TTTM năm 2010].

Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình tố tụng

Khi quyết định đưa vụ việc tranh chấp ra giải quyết tại Tòa án/Trung tâm trọng tài thì để đảm bảo cho việc thi hành án sau này của bị đơn, việc nguyên đơn yêu cầu Tòa án/Hội đồng trọng tài xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời [“BPKCTT”] là điều hết sức cần thiết và thường được áp dụng trên thực tế.

Các BPKCTT theo quy định của Luật TTTM năm 2010 có nhiều khác biệt so với các BPKCTT theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 [“BLTTDS 2015”]. Cụ thể: các BPKCTT theo Luật TTTM năm 2010 mà đương sự có thể yêu cầu áp dụng bị hạn chế [ít hơn] rất nhiều so với BLTTDS 2015, đặc biệt là Luật TTTM năm 2010 không quy định BPKCTT là “phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ” như BLTTDS 2015 có quy định. Quy định này đã hạn chế/loại bỏ quyền của một bên [thường là nguyên đơn] trong việc yêu cầu phong tỏa tài sản của bên còn lại để đảm bảo cho việc thi hành án sau này.

Ngoài ra, trong Tố tụng Trọng tài, nếu muốn nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT cho Hội đồng trọng tài thì đương sự chỉ có thể nộp đơn sau khi Hội đồng trọng tài đã được thành lập. Quy định này vô hình chung đã hạn chế đi rất nhiều tính hiệu quả của việc áp dụng BPKCTT vì khi đó, tính cấp bách và bất ngờ của việc áp dụng BPKCTT sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế.

Tác giả: ls. Trần Trung Thi - Luật sư Thành viên tại TriLaw

1. Tính chất pháp lý trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài hay Tòa án

a. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án có thẩm quyền

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp.tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước. Được đảm bảo tuân theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Và bản án của tòa án sẽ được cưỡng chế thi hành bằng sức mạnh của nhà nước.

Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án với trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.về dân sự, thương mại và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án.thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu.hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.

b. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

Trong khi đó, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại.là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tự thỏa thuận.và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại. Nói cách khác, đây là một tranh chấp tư, vụ việc được giải quyết.một cách bí mật về thông tin,… có thể được sử dụng thay thế.cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.

Điều kiện tiên quyết để có thể giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài đó.là các bên phải có Thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.

Đồng thời Thỏa thuận trọng tài này phải không thuộc trường hợp vô hiệu.hoặc không thể thực hiện được theo quy định của pháp luật về Trọng tài.

TÒA ÁN VÀ TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI

Theo pháp luật Việt Nam, hiện tại có hai cơ chế giải quyết tranh chấp chính là Tòa án và Trọng Tài. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy đôi khi chúng ta gặp khó khăn trong việc xác định các bên nên lựa chọn cơ chế nào trong hai cơ chế trên. Vì vậy, qua bài viết này KAV Lawyers sẽ đưa ra một số ưu điểm và hạn chế của hai cơ chế giải quyết tranh chấp trên nhằm giúp quý vị độc giả có thêm góc nhìn khái quát hơn, từ đó cá nhân và doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu nhất cho mìnhh.

I. Ưu điểm và hạn chế của Tòa án

Ưu Điểm

Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014, thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Theo đó, Tòa án là cơ quan xét xử mang tính cưỡng chế cao nhất, Bản án hoặc Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì bắt buộc các bên phải tuân thủ, trong trường hợp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ từ các bên thì sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Bên cạnh đó, những ưu điểm từ Tòa án có thể xem xét đến như sau:

  • Về án phí/ tạm ứng án phí; lệ phí/ tạm ứng lệ phí: Vì Tòa án là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước nên chi phí cho giải quyết tranh chấp không cao như thủ tục Trọng tài. Một vụ việc có cùng giá trị tranh chấp dưới 100 triệu, ở Tòa án, án phí/ tạm ứng án phí sẽ rơi vào khoảng dưới 5 triệu đồng [căn cứ vào danh mục án phí ban hành kèm theo nghị quyết 326/2016/UTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án] còn ở Trọng tài thì hơn10 triệu đồng. Bên cạnh đó, án phí/tạm ứng án phí ở Tòa sẽ được hoàn trả lại cho bên được xử thắng kiện, đương sự sẽ đến cơ quan thi hành án để nhận lại tiền tạm ứng án phí mình đã đóng trước đó. Không như Tòa án, ở thủ tục Trọng tài, phí trọng tài sẽ không được trả lại cho một bên trong trường hợp bên đó thắng kiện mà Hội đồng trọng tài sẽ buộc bên thua kiện hoàn trả lại phí này cho bên thắng kiện trong phán quyết trọng tài. Trong trường hợp, bên thua kiện không tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài thì bên thắng kiện phải yêu cầu thi hành án thì mới có thể thu hồi lại phí trọng tài. Điều này dẫn đến rủi ro nếu trong trường hợp bên thua kiện không đủ tài sản để thi hành thì rất khó để lấy lại phí trọng tài mà bên thắng kiện đã bỏ ra.
  • Về nguyên tắc xét xử: Tòa án xét xử công khai, mang tính răn đe đối với những cá nhân/ pháp nhân vi phạm pháp luật. Trường hợp những cá nhân/ pháp nhân có hành vi không trung thực trong kinh doanh khi bị xét xử công khai sẽ mang tính răn đe nhiều hơn, vì khi thông tin bị công khai sẽ gây ảnh hưởng đến uy tín của cá nhân/ pháp nhân đó, từ đó những cá nhân/ pháp nhân này sẽ không dám tái phạm nữa.

Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm trong cơ chế giải quyết tranh chấp thì Tòa án cũng còn tồn đọng một số hạn chế nhất định, các hạn chế có thể kể đến như:

  • Trình tự, thủ tục xét xử bằng Tòa án không được linh hoạt, vẫn còn mang nặng tính hình thức. Thời gian tiến hành trên thực tế kéo dài, một vụ tranh chấp có thể trải qua nhiều cấp xét xử. Các cấp xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp, Bản án, Quyết định có hiệu lực của Tòa án còn bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
  • Nguyên tắc xét xử công khai tuy là một ưu điểm nhưng mặt khác vẫn còn hạn chế trong trường hợp khi mà doanh nghiệp muốn giữ uy tín trên thương trường hay bí mật kinh doanh của họ. Trên thực tế, có những tranh chấp ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Khi xét xử công khai, một bên có quyền thông tin đến báo chí hay các cơ quan ngôn luận khác, thông tin này có thể gây bất lợi cho một bên, và thậm chí còn có thể gây tác động đến quyết định của các bên trong vụ tranh chấp.
  • Quyết định/ Bản án của Tòa án không mang tính chung thẩm, có thể bị kháng cáo nếu một trong các bên cảm thấy không thỏa đáng về Quyết định/ Bản án của Tòa hoặc bị kháng nghị khi có yêu cầu từ Viện kiểm sát.

II. Ưu điểm và hạn chế của Trọng Tài

Ưu điểm

Căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 thì Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại, như vậy khi các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì khi có tranh chấp, cơ chế trọng tài sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp. Đây là cơ chế lựa chọn, không như Tòa án, sẽ mặc định là cơ chế giải quyết tranh chấp nếu các bên không có thỏa thuận lựa chọn nào khác. Có thể thấy, cơ chế Trọng tài cho các bên có sự lựa chọn và chủ động hơn trong việc giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, còn một số ưu điểm về phương thức này có thể kể đến như sau:

  • Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài nhanh chóng, linh hoạt. Phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, trọng tài chỉ xét xử một lần duy nhất, không như cơ chế của Tòa án, là Quyết định/ Bản án của Tòa có thể bị kháng cáo lên cấp xét xử cao hơn.
  • Bảo đảm bảo mật thông tin. Khoản 4 Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định rằng “Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tiến hành không công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Điều này giúp cho doanh nghiệp nếu bị vướng vào tranh chấp, kiện tụng vẫn giữ được bí mật kinh doanh và uy tín trên thương trường.
  • Trong Hội đồng trọng tài, ngoài những trọng tài viên có chuyên môn về luật, thì còn có nhiều trọng tài viên là chuyên gia có chuyên môn về những nghiệp vụ mang tính đặc thù khác như kỹ thuật, dầu khí, xây dựng,… điều này giúp cho việc giải quyết tranh chấp được toàn diện hơn, vì trong những trường hợp đặc biệt, có những tranh chấp liên quan đến các ngành nghề đặc thù và cần một người có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực đó để giải quyết tranh chấp. Các trung tâm trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước, hoạt động độc lập, chính vì vậy mà tính chất trung lập của Trọng tài được đảm bảo.

Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm vượt trội của Trọng tài, cũng vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại này. Một số hạn chế có thể kể đến như sau:

  • Hạn chế thứ nhất là chi phí cho tố tụng bằng trọng tài khá cao, không có mức phí cố định mà tùy thuộc vào quy định của từng trung tâm trọng tài riêng và trị giá của từng vụ tranh chấp. Theo tìm hiểu, mức giá trọng tài tại VIAC cho vụ tranh chấp trị giá từ 100 triệu đồng trở xuống là gần 17 triệu đồng trong khi đó, cùng giá trị tranh chấp, mức án phí/ tạm ứng án phí ở Tòa chỉ từ 5 triệu đồng.
  • Việc điều tra, xác minh chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với trọng tài mất nhiều thời gian hơn tòa án. Trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp thì thẩm quyền của Trọng tài hẹp hơn so với Tòa án, trọng tài chỉ được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong một số trường hợp được quy định như sau [Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi gây ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng trọng tài; kê biên tài sản đang tranh chấp; yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp]. Trong điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, trường hợp trọng tài không thể tự mình thu thập thì vẫn phải yêu cầu Tòa án có thẩm quyền cung cấp tài liệu. Vì vậy, Trọng tài viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng nếu như không có sự tự nguyện và thiện chí của các bên tranh chấp và người làm chứng.
  • Phán quyết của Trọng tài có thể bị xem xét hủy bởi Tòa án khi có đơn yêu cầu của một bên [khoản 1 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010]. Đây có thể là hạn chế lớn nhất khi các bên quyết định có nên áp dụng phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp không. Tại khoản 2 Điều 68 có nêu ra căn cứ để hủy phán quyết của Trọng tài, nhưng những căn cứ này cũng chưa thật sự thuyết phục và rất dễ xảy ra hiện tượng lạm dụng để hủy phán quyết. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cũng cho thấy, số phán quyết của Trọng tài bị hủy cũng không nhiều.

*Trên đây là bài viết so sánh giữa hai cơ chế xét xử bằng Tòa án và Trọng tài, KAV Lawyers gửi đến các bạn độc giả. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để biết chính xác hơn về các thông tin liên quan đến pháp luật hoặc để tư vấn pháp luật, xin liên hệ với KAV Lawyers qua email hoặc số điện thoại sau:

E-mail: [emailprotected] hoặc [emailprotected]

Số điện thoại: [+84] 28 6270 7075hoặc [+84] 949 761 861

KAV Lawyers – Công ty luật uy tín, luôn sẵn sàng đồng hành cùng các bạn.

Share:

Video liên quan

Chủ Đề