Tác phẩm nghị luận có cần các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự không cần ở mức độ nào, vì sao

CÁC KIỂU VĂN BẢN ĐÃ HỌC TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS

Đọc bảng tổng kết sau [trang 169, 170 SGK Ngữ văn 9 tập 2] và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới.

1. Hãy cho biết sự khác nhau của các kiểu văn bản trên. [Gợi ý: Tự sự khác miêu tả như thế nào? Thuyết minh khác tự sự và miêu tả như thế nào? Văn bản biểu cảm khác văn bản thuyết minh ở đâu? Văn bản nghị luận khác văn bản điều hành ở những điểm nào? Hãy nêu các phương thức biểu đạt cơ bản của mỗi kiểu để làm sáng tỏ các câu hỏi trên.]

2. Các kiểu văn bản trên có thể thay thế cho nhau được hay không? Vì sao?

3. Các phương thức biểu đạt trên có thể được phối hợp với nhau trong một văn bản cụ thể hay không? Vì sao? Nêu một ví dụ để minh họa.

4. Từ bảng trên, hãy cho biết kiểu văn bản và hình thức thể hiện, thể loại tác phẩm văn học có gì giống nhau và khác nhau.

a] Hãy kể tên các thể loại văn học đã học, ghi lên bảng.

b] Mỗi thể loại ấy đã sử dụng các phương thức biểu đạt nào?

c] Tác phẩm văn học như thơ, truyện, kịch có khi nào sử dụng yếu tố nghị luận không? Cho ví dụ và cho biết yếu tố nghị luận đó có đặc điểm gì?

5. Kiểu văn bản tự sự và thể loại văn học tự sự khác nhau như thế nào? Tính nghệ thuật trong tác phẩm văn học tự sự thể hiện ở những điểm nào?

6. Kiểu văn bản biểu cảm và thể loại văn học trữ tình giống và khác nhau ở những điểm nào? Nêu đặc điểm của thể loại văn học trữ tình. Cho ví dụ minh họa.

7. Tác phẩm nghị luận có cần các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự không? Cần ở mức độ nào, vì sao?

Trả lời:

1. 

- Tự sự và miêu tả: Văn tự sự trình bày các sự việc [sự kiện] có quan hệ nhân quả dẫn đến kết cục biểu lộ ý nghĩa. Nhằm mục đích biểu hiện con người, quy luật đời sống bày tỏ tình cảm thái độ. Còn miêu tả thì tái hiện các tính chất, thuộc tính sự vật, hiện tượng làm cho chúng biểu hiện. Nhằm mục đích giúp con người cảm nhận và hiểu được chúng.

- Thuyết minh khác tự sự và miêu tả: Văn thuyết minh tập trung trình bày thuộc tính, cấu tạo, nguyên nhân, kết quả có ích, có hại của sự vật hiện tượng. Nhằm mục đích giúp người đọc có tri thức khách quan và có thái độ đúng đắn với chúng.

- Biểu cảm khác thuyết minh: Văn biểu cảm bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp tình cảm, cảm xúc của con người đối với con người, thiên nhiên, xã hội, sự vật nhằm mục đích bày tỏ tình cảm và khơi gợi lòng đồng cảm gây xúc động ở người đọc.

- Nghị luận khác điều hành: Văn nghị luận trình bày tư tưởng, chủ trương, quan điểm của con người đối với tự nhiên xã hội và con người bằng các luận điểm, luận cứ và cách lập luận. Nhằm mục đích thuyêt phục mọi người tin theo cái đúng, cái tốt, từ bỏ cái sai, cái xấu. Còn văn điều hành trình bày theo mẫu chung và chịu trách nhiệm về pháp lí các ý kiến, nguyện vọng của cá nhân, tập thể đối với cơ quan quản lí, trình bày các quyết định của người có thẩm quyền đối với người có trách nhiệm thực thi công việc; trình bày các thỏa thuận giữa công dân với nhau về lợi ích và nghĩa vụ nhằm đảm bảo các quan hệ bình thường giữa người và người theo quy định và pháp luật.

2. Trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS có sáu kiểu văn bản:

- Tự sự                                     - Miêu tả

- Biểu cảm                                - Thuyết minh

- Nghị luận                                - Điều hành

=> Mỗi kiểu văn bản đó sử dụng một phương thức biểu đạt chủ yếu. Chúng không thể thay thế được cho nhau và mỗi kiểu văn bản đó có một mục đích biểu đạt; có những yêu cầu về nội dung và phương pháp thể hiện và ngôn ngữ riêng. Tuy nhiên sáu kiểu văn bản đó có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và ít có một kiểu văn bản nào chỉ dùng một phương thức biểu đạt duy nhất.

3. Các phương thức biểu đạt thường kết hợp với nhau trong một văn bản cụ thể để làm sáng tỏ đặc điểm của đối tượng được nói tới trong mỗi loại văn bản.

Đoạn văn sau đây có sự phối hợp các phương thức tự sự, nghị luận và biểu cảm:

“Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi:

- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lảo làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình có sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói...

Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương. Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình đế nghĩ đến một cái gì khác đâu. Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão từ chối tất cả những cái gì tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch. Và lão cứ xa tôi dần dần...

Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lòng. Ta khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn việc ấy với Binh Tư. Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi. Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. Hắn bĩu môi và bảo:

- Lão làm bộ đây! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu: lão vừa xin tôi một ít bả chó...

Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:

- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.

Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết... Một con người như thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng... Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn...”

[Nam Cao, Lão Hạc]

4. 

a]  

- Tự sự sử dụng phương thức biểu đạt là thông qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho tác phẩm trở thành một câu chuyện có ý nghĩa thông qua lời người kể chuyện.

- Trữ tình sử dụng phương thức biểu đạt là cảm xúc trữ tình và phương thức biểu cảm của ngôn ngữ.

- Kịch sử dụng phương thức biểu đạt là ngôn ngữ trực tiêp [đối thoại, độc thoại] và hành động của nhân vật mà không qua lời người kể chuyện.

b] Tác phẩm văn học như thơ, truyện, kịch đôi khi cũng có sử dụng các yếu tố nghị luận, chẳng hạn như bốn câu thư của Tố Hữu:                                    

Nếu là con chim, chiếc lá

                      Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

   Lẽ nào vay mà không có trả

                  Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?

Yếu tố nghị luận làm cho thơ thêm phần sâu sắc, giàu tính triết lí, gợi cho người đọc suy tư...

5. Khác nhau: Kiểu văn bản tự sự không chỉ dùng cho văn bản nghệ thuật mà còn dùng trong rất nhiều tình huống và các loại văn bản khác, ví dụ như trong văn học báo chí, đơn từ, bản tin lịch sử... còn thể loại tự sự là thể loại nhằm phân biệt với thể loại trữ tình và kịch. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác phẩm tự sự là loại tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống “thông qua các sự kiện, biến cố và hành vi của con người làm cho tác phẩm trở thành một câu chuyện vể ai đó, về cái gì đó”. [NXB Giáo dục, Hà Nội 2004]

6. Khác nhau: kiểu văn bản biểu cảm không chỉ dùng cho văn bản nghệ thuật mà còn dùng trong rất nhiều tình huống và các loại văn bản khác: điện mừng, thăm hỏi, chia buồn, văn tế, điếu văn, thư từ...

- Còn thể loại trữ tình là thể loại văn học nhằm phân biệt với các thể loại tự sự và kịch. Thể loại văn học trữ tình thông qua các hình tượng nghệ thuật trữ tình mà bày tỏ cảm xúc cúa con người.

7. 

- Tác phẩm nghị luận vẫn cần các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự với mục đích làm cho bài nghị luận thêm cụ thể và sinh động, không chỉ tác động đến lí trí người đọc mà còn lay động cả tình cảm người đọc.

- Có điều các yếu tố thêm vào đó là phụ, không được lấn át phương thức nghị luận làm mất đi yêu cầu và nội dung bàn luận. Phương thức nghị luận luôn là phương thức chủ yếu trong bài văn nghị luận. 

Câu 1 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Vì sao một văn bản cần có tính thống nhất? Tính thống nhất của văn bản thể hiện ở những mặt nào?

Một văn bản cần có tính thống nhất vì nếu không có sự thống nhất chủ đề, văn bản sẽ bị phân tán, không tập trung được vào vấn đề chính hoặc lạc sang vấn đề khác trong khi triển khai văn bản.

– Nhan đề và các đề mục trong văn bản.

– Trong các mối quan hệ giữa các phần của văn bản.

– Các từ ngữ then chốt trong văn bản.

Em rất thích đọc sách, chủ yếu là sách văn học và khoa học đời sống. Đến với sách là đến với thế giới của những chân trời vô tận như nhà văn Maxim Goroki có nói: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Không một ai có thể phủ nhận được giá trị bổ ích và kì diệu mà sách mà sách mang lại. Vì thế em đã xây dựng cho mình kế hoạch đọc sách hiệu quả em bằng cách tìm ra phương pháp đọc và sự chọn lọc đầu sách kĩ lưỡng. Đọc sách luôn mang lại cho em niềm vui và những tri thức quý báu trong kho tàng kinh nghiệm vô tận của nhân loại.

Trong bốn mùa của trời đất, có lẽ mùa hè là mùa sôi động nhất. Những tiếng ve sầu râm ran trong kẽ lá, hoa phượng vĩ nở rực một khoảng trời cũng là lúc báo hiệu hè đã sang. Một mùa hè tràn đầy sức sống và niềm vui. Những cô cậu học trò sau một năm học tập giờ không còn bận bịu với sách vở nữa. Chào đón mùa hè, người ta đón nhận sự bừng tỉnh đến mãnh liệt của cái nắng vàng gay gắt đi kèm với những âm thanh sôi động ồn ào. Mùa hè thật hấp dẫn!

Câu 3 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Vì sao cần phải tóm tắt văn bản tự sự? Muốn tóm tắt một văn bản tự sự thì phải làm như thế nào, dựa vào những yêu cầu nào?

– Để chắt lọc và hiểu nội dung chính của văn bản.

– Để giới thiệu ngắn gọn nhất văn bản đó cho người khác biết.

– Để lưu giữ và nhớ lại khi cần thiết.

– Đọc kĩ văn bản và hiểu đúng chủ đề của văn bản.

– Xác định những nội dung chính cần tóm lược.

– Viết thành bản tóm tắt một cách khách quan.

Câu 4 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm có tác dụng như thế nào?

– Yếu tố miêu tả giúp văn bản giàu hình ảnh, trực quan sinh động hơn.

– Yếu tố biểu cảm khiến văn bản tự sự thể hiện được thái độ, tình cảm của người viết.

Câu 5 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Viết [nói] đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm cần chú ý những gì?

Trả lời:

Khi viết văn bản tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm cần chú ý:

– Không sa đà vào miêu tả hay biểu cảm thái quá.

– Xác định mục đích chính là tự sự [ kể chuyện].

– Yếu tố miêu tả, biểu cảm là phụ.

Câu 6 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2:

Văn bản thuyết minh có những tính chất như thế nào và có những lợi ích gì? Hãy nêu các văn bản thuyết minh thường gặp trong đời sống hằng ngày.

Trả lời:

Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong đời sống hằng ngày, cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân… các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.

– Văn bản thuyết minh cần phải đảm bảo:

+ Trình bày tri thức một cách khách quan, trung thực, hữu ích tới người đọc.

+ Diễn đạt rõ ràng, chính xác, chặt chẽ và hấp dẫn.

– Một số văn bản thuyết minh thường gặp:

+ Giới thiệu một sản phẩm mới

+ Giới thiệu một đặc sản địa phương

+ Giới thiệu một danh lam thắng cảnh hoặc một di tích lịch sử

+ Giới thiệu tiểu sử danh nhân, nhà văn…

+ Giới thiệu một tác phẩm

Câu 7 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2:

Muốn làm văn bản thuyết minh, trước tiên cần phải làm gì? Vì sao phải làm như vậy? Hãy cho biết những phương pháp cần dùng để thuyết minh sự vật. Nêu ví dụ về các phương pháp ấy.

Trả lời:

Muốn làm một văn bản thuyết minh, chúng ta cần phải:

– Xác định rõ đối tượng cần thuyết minh

– Xác định rõ phạm vi, tri thức khách quan, khoa học về đối tượng cần được thuyết minh đó.

– Lựa chọn phương pháp thuyết minh thích hợp

– Tìm bố cục thích hợp

Một số phương pháp thuyết minh sự vật thường gặp:

– Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích.

– Phương pháp liệt kê.

– Phương pháp nêu ví dụ.

– Phương pháp dùng số liệu.

– Phương pháp so sánh.

– Phương pháp phân loại, phân tích.

Câu 8 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Hãy cho biết bố cục thường gặp khi làm bài thuyết minh về:

– Một đồ dùng.

– Cách làm một sản phẩm nào đó.

– Một di tích, danh lam thắng cảnh.

– Một loài động vật, thực vật.

– Một hiện tượng tự nhiên,…

Trả lời:

Bố cục thường gặp nhất khi làm bài văn thuyết minh là bố cục bao gồm 3 phần:

– Mở bài: Giới thiệu đối tượng cần thuyết minh

– Thân bài: Trình bày một cách chi tiết, cụ thể về các mặt như: cấu tạo, đặc điểm, lợi ích, và những điểm nổi bật khác của đối tượng.

– Kết bài: Bày tỏ thái độ đối với đối tượng.

Câu 9 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2: Thế nào là luận điểm trong bài văn nghị luận? Hãy nêu ví dụ về một luận điểm và nói các tính chất của nó.

Trả lời:

Luận điểm trong bài văn nghị luận là những tư tưởng, quan điểm, chủ trương mà người viết nêu ra trong bài.

Tính chất của luận điểm:

– Chính xác, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu giải quyết vấn đề và đủ làm sáng tỏ vấn đề được đặt ra.

– Luận điểm là một hệ thống: có luận điểm chính và luận điểm phụ.

– Các luận điểm vừa có sự liên kết chặt chẽ vừa có sự phân biệt với nhau và được sắp xếp theo một trật tự hợp lí.

Câu 10 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2:

Văn bản nghị luận có thể vận dụng kết hợp các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm như thế nào? Hãy nêu một ví dụ về sự kết hợp đó.

Trả lời:

Văn bản nghị luận không phải chỉ cần tới yếu tố biểu cảm mà còn cần tới cả yếu tố tự sự và miêu tả.

+ Yếu tố tự sự là yếu tố đùng để trình bày một chuỗi các sự việc, sự kiện nối tiếp nhau, sự việc này nối tiếp sự việc kia để cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.

+ Yếu tố miêu tả là yếu tố giúp người đọc, người nghe hình dung ra những đặc điểm, tính chất nổi bật của người, cảnh, làm cho chúng trở nên sinh động, hấp dẫn trước mắt người đọc, người nghe như những gì chúng vốn có.

– Các yếu tố như tự sự, miêu tả, biểu cảm giúp cho văn bản nghị luận trở nên rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, đỡ khô khan và có sức truyền cảm hứng thuyết phục hơn.

Soi chiếu vào tác phẩm Thiên đô chiếu:

+ Yếu tố tự sự: khi kể về những lần dời đô của nhà Thương tới nhà Chu nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh.

+ Yếu tố miêu tả: miêu tả về những lợi thế của thành Đại La: tiện hướng nhìn sông dựa núi, thế rồng cuộn hổ ngồi, đất đai cao thoáng, muôn vật phong phú, tốt tươi.

+ Yếu tố biểu cảm: Biểu cảm trực tiếp tình cảm của mình trước sự hao tốn dưới hai triều Đinh, Lê [trẫm rất đau xót].

Câu 11 trang 151 - SGK Ngữ văn 8 tập 2:

Thế nào là văn bản tường trình, văn bản thông báo? Hãy phân biệt mục đích và cách viết hai loại văn bản đó.

Trả lời:

- Văn bản thông báo là văn bản dùng để truyền đạt thông tin cụ thể của cơ quan, đoàn thể, người tổ chức để báo cho những người dưới quyền, thành viên, đoàn thể hoặc những người quan tâm đến nội dung thông báo được biết để thực hiện hay tham gia.

- Văn bản tường trình là văn bản được trình bày thiệt hại hay mức độ trách nhiệm của người tường trình trong các sự việc xảy ra hậu quả cần phải xem xét.

- Văn bản thông báo và văn bản tường trình có những điểm giống và khác nhau:

+ Giống: Đều cùng tuân thủ những thể thức trình bày đầy đủ: thời gian, địa điểm, sự việc, người có liên quan.

+ Khác: Báo cáo thì trình bày những công việc đã làm, đã thực hiện được để người khác được biết. Tường trình: trình bày thiệt hại hoặc mức độ trách nhiệm của người tường trình trong các sự việc xảy ra sự việc cần xem xét lại.

Video liên quan

Chủ Đề