Tác phẩm tự sự dân gian là gì

Văn học dân gian là một trong những kho tàng quan trọng của văn học Việt Nam nói riêng và văn học của Thế giới nói chung. Văn học dân gian mang tính đặc trưng và rất phong phú.

Chính vì thế, trong bài viết hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến vấn đề: Văn học dân gian là gì?

Văn học dân gian là văn học được nói hoặc hát trái ngược với văn học được viết lại, mặc dù nhiều văn học truyền miệng đã được ghi lại bằng chữ viết.

Hiện tại, không có định nghĩa tiêu chuẩn cho loại văn học này, vì các nhà văn học dân gian có các mô tả khác nhau cho văn học truyền miệng hoặc văn học dân gian.

Đặc điểm của văn học dân gian là:

– Tác phẩm văn học dân gian được lưu giữ bằng phương thức truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ địa phương này sang địa phương khác.

– Quá trình sáng tác tập thể được diễn ra như sau: một người khởi xướng, tác phẩm hình thành và được tập thể tiếp nhận. Sau đó, những người khác tiếp tục lưu truyền và sáng tác lại làm cho tác phẩm biến đổi dần, hoàn thiện và phong phú thêm về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.

– Tính truyền miệng làm nên nhiều bản gọi là di sản.

– Văn học dân gian thường phản ánh văn hóa và tín ngưỡng của người dân qua các thời kì. Tính hiện thực của văn học dân gian thể hiện rõ nét nhất ở những bài ca nghi lễ, bài hát đối đáp giao duyên, các bài hò lao động gắn bó và phục vụ cho các sinh hoạt cộng đồng của nhân dân.

Những thể loại của văn học dân gian

– Thần thoại:

Là loại hình tự sự dân gian thường kể về các vị thần, xuất hiện ở thời công xã nguyên thủy nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của con người.

– Truyền thuyết:

+ Truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về những sự kiện và nhân vật có liên quan đến lịch sử thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo. Truyện thể hiện cách đánh giá và thái độ của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử được kể đến.

+ Nhân vật của truyền thuyết chủ yếu là người hoặc bán thần. Cốt truyện thường xoay quanh nhiều nhân vật, thậm chí có thể xây dựng thành hai hệ thống nhân vật đối lập nhau. Ngôn gữ cô đọng, ít miêu tả, chủ yếu là thuật lại hành động của nhân vật, kể những hoàn cảnh xuất thân của nhân vật. Lời thoại của nhân vật là lời thể hiện lòng nhiệt huyết của nhân vật đối với đất nước trong hoàn cảnh lâm nguy.

– Sử thi:

Là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hay nhiều biến cố lớn lao diễn ra trong đời sống cộng đồng của nhân dân thời cổ đại. Nhân vật của sử thi mang cốt cách của cộng đồng, tượng trưng cho sức mạnh, niềm tin của cộng đồng.

– Ngụ ngôn:

Đây là loại truyện được kể, bằng văn xuôi hoặc văn vần, mượn chuyện của đồ vật, con vật hoặc về chính con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện con người, nhằm khuyên nhủ, răn dạy con người ta một bài học nào đó trong cuộc sống.

+ Một phần lớn của truyện ngụ ngôn bắt nguồn từ truyện lời vật do sự gần gũi giữa con người với tự nhiên nên con người đã gán cho con vật tính cách của con người.

+ Kết cấu truyện ngụ ngôn thường ngắn, ít tình tiết. Phần truyện kể thì nổi lên phần ý nghĩa thì lắng đọng người đọc tự rút ra. Nhân vật trong truyện ngụ ngôn rất đa dạng, được xây dựng đối lập nhau để tạo sức hấp dẫn cho truyện. Tác giả dân gian còn dùng biện pháp phủ định và biện pháp ẩn dụn để xây dựng truyện ngụ ngôn.

– Cổ tích:

+ Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lý xã hội và ước mơ một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động.

+ Trong mỗi truyện cổ tích đều có những yếu tố của thực tế nhưng những yếu tố ấy lại được hư cấu kì ảo để xây dựng nên một thế giới khác với thế giới hiện tại, mà trong thế giới này mọi chuyện đều có thể xảy ra.

– Một số thể loại khác, có thể kể đến như:

+ Vè:

Là tác phẩm tự sự dân gian có lời thơ mộc mạc kể về những sự kiện diễn ra trong xã hội nhằm thông báo và bình luận.

+ Truyện cười:

Xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn trong cuộc sống, làm bật lên tiếng cười nhằm mục đích mua vui giải trí và phê phán thói hư tật xấu.

+ Ca dao:

Là những bài thơ trữ tình dân gian thường là những câu hát cso vần, có điệu nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.

+ Tục ngữ:

Những câu nói ngắn gọn, hàm xúc, có hình ảnh, nhịp điệu, thể hiện kinh nghiệm của nhân dân được đúc kết qua thực tiễn đời sống hàng ngày.

Như vậy, với nội dung Văn học dân gian là gì? Chúng tôi đã giới thiệu với quý bạn đọc trong bài viết hôm nay. Chúng tôi mong rằng những nội dung được trình bày trong bài viết sẽ giúp ích được quý bạn đọc.

  • Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể thể hiện nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động về tự nhiên, xã hội nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
  • Văn học dân gian có nhiều giá tọ to lớn về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, cần được trân trọng và phát huy.

a] Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng [tính truyền miệng]

  • Ngôn từ truyền miệng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên nội dung, ý nghĩa, thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian.
  • Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian so với văn học viết. Kể cả khi đã được ghi chép lại, văn học dân gian vẫn tiếp tục tồn tại bằng hình thức truyền miệng.
  • Tính truyền miệng của văn học dân gian gắn liền với quá trình diễn xướng dân gian hào hứng và sinh động.

b] Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể [tính tập thể]

  • Văn học dân gian là kết quả của quá trình sáng tác tập thể.
  • Quá trình sáng tác tập thể diễn ra theo trình tự: một người khởi xướng -> tác phẩm được hình thành và đón nhận -> người khác tiếp tục lưu truyền, bổ sung, sửa chữa, hoàn thiện tác phẩm cả về nội dung và hình thức.
  • Tác phẩm sẽ là tài sản chung của cộng đồng, người nào cũng có thể sửa chữa, sử dụng.

=> Tính truyền miệng và tính tập thể là những đặc trưng cơ bản, chi phối, xuyên suoosst quá trình sáng tạo và lưu truyền tác phẩm văn học dân gian, thể hiện sự gắn bó mật thiết của văn học dân gian với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

  • Thần thoại: thể loại kể về những vị thần để giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của con người thời cổ đại.

Ví dụ: Thần trụ trời; Ông trời, Nữ thần Mặt Trăng, Cuộc tu bổ các giống vật,...

  • Sử thi: tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.

Ví dụ: Sử thi Đăm Săn, Sử thi Lấy hoa bạc, hoa hồng, Sử thi Xinh Nhã,...

  • Truyền thuyết: tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử [hoặc có liên quan đến lịch sử] phần lớn theo xu hướng lí tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng cư dân của một vùng. Bên cạnh đó cũng có những truyền thuyết vừa đề cao, vừa phê phán nhân vật lịch sử.

Ví dụ: Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh; Truyền thuyết Thánh Gióng; truyền thuyết An Dương Vương - Mị Châu và Trọng Thủy

  • Truyện cổ tích: tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận của người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.

Ví dụ: Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây Khế,...

  • Truyện ngụ ngôn: Tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, thông qua các ẩn dụ [phần lớn là hình tượng loài vật] để kể về những sự việc liên quan đến con người nêu lên triết lí nhân sinh hoặc những bài học kinh nghiệm về cuộc sống.

Ví dụ: Đeo nhạc cho mèo, Con quạ và cái bình nước, Cáo cụt đuôi,...

  • Truyện cười: tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những việc xấu, trái với tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng gây cười nhằm mục đích giải trí, phê phán.

Ví dụ: Treo biển, Lợn cưới áo mới, Tam đại con gà, Nhưng nó phải bằng hai mày,...

  • Tục ngữ: Những câu nói ngắn gọn, hàm súc, phần lớn có hình ảnh, vần, nhịp, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, thường được dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của nhân dân.

Ví dụ: Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau; Cọp chết để da người ta chết để tiếng,...

  • Câu đố: Bài văn vần hoặc câu nói thường có vần, mô tả vật đố bằng ẩn dụ hoặc những hình ảnh, hình tượng khác lạ để người nghe tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp những tri thức về đời sống.

Ví dụ: “Thân em xưa ở bụi tre/ Mùa đông xếp lại, mùa hè mở ra” [Cái quạt giấy]; “Anh ngồi đâu em cũng ngồi hầu/ Yêu em anh mới mớm trầu cho em” [Cái ống nhổ].

  • Ca dao: tác phẩm thơ trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.

Ví dụ: Ca dao than thân - tình nghĩa; Ca dao hài hước - châm biếm; Ca dao về tình yêu quê hương đất nước - tình cảm gia đình,...

  • Vè: tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, có lối kể mộc mạc, phần lớn nói về các sự việc, sự kiện của làng, của nước và mang tính thời sự.

Ví dụ: Bà còng đi chợ trời mưa, Vè nói ngược, Cái ngủ mày ngủ cho lâu,...

  • Truyện thơ: tác phẩm tự sự dân gian bằng th, phản ánh số phận và khát vọng của con người về hạnh phúc lứa đôi và công bằng xã hội.

Ví dụ: Quan Âm Thị Kính, Thạch Sanh,...

  • Chèo: Tác phẩm kịch hát dân gian, kết hợp các yếu tố trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức và phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.

Ví dụ: Quan Âm Thị Kính, Bài ca giữ nước, Đồng tiền vạn lịch,...

  • Văn học dân gian là kho tàng tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc
    • Tri thức trong văn học dân gian thuộc đỉ mọi lĩnh vực của đời sống: tự nhiên, xã hội và con người.
    • Tri thức dân gian phần lớn là những kinh nghiệm lâu đời được đúc kết từ thực tiễn được trình bày một cách sinh động, dễ hiểu.
    • Thể hiện trình độ và quan điểm nhận thức của nhân dân nên khác với tầng lớp thống trị về các vấn đề lịch sử, xã hội.
    • Việt Nam có 54 tộc người, mỗi tộc người có một kho tàng văn học dân gian riêng tạo nên vốn tri thức của toàn dân tộc vô cùng đa dạng, phong phú.
  • Văn học dân gian có giá trị sâu sắc về đạo lí làm người
    • Giáo dục con người tinh thần nhân đạo và lạc quan: tình yêu thương đồng loại, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi đòi lại công bằng, niềm tin bất diệt vào cái thiện,...
    • Hình thành những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu quê hương, đất nước, tinh thần bất khuất, kiên trung,...
  • Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc
    • Văn học dân gian đã chắt lọc, mài giũa qua không gian và thời gian, khi đến với chúng ta đã trở thành chuẩn mực về nghệ thuật cho người đời sau học tập.
    • Trước khi văn học viết ra đời, văn học dân gian giữ vai trò chủ đạo. Khi văn học viết đã phát triển, văn học dân gian là nguồn nuôi dưỡng, cơ sở của văn học viết. Trong tiến trình lịch sử, văn học dân gian tồn tại song song với văn học viết.

Video liên quan

Chủ Đề