Tại sao không có Tổng tuyển cử 1956

.

Cập nhật lúc: 20:51, 20/07/2021 [GMT+7]

Ngày 21-7-1954, Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. 67 năm đã trôi qua, song cứ gần đến ngày này, các thế lực thù địch ở cả trong và ngoài nước vẫn có luận điệu cũ xuyên tạc trắng trợn rằng chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phá hoại hòa bình, vi phạm Hiệp định Genève gây ra cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”[?!]. Vậy đâu là sự thực? Ai phá hoại hòa bình? Ai gây ra chiến tranh?

1.  Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Đó không chỉ là sự nhất quán trong tư tưởng mà cả trong thực tiễn. Minh chứng rõ nét nhất là ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời với bản Tuyên ngôn độc lập chính thức công bố với quốc dân và toàn thế giới. Ngày 6-1-1946, cử tri của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lần đầu tiên thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của mình tham gia bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I bao gồm các đại biểu khắp Bắc - Trung - Nam.

Ở miền Nam, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, họ đã dựng lên hết chính phủ tay sai này đến chính phủ bù nhìn khác từ Nam Kỳ quốc tới Quốc gia Việt Nam chỉ với một âm mưu duy nhất là chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Ngày 7-5-1954, những người lính Cụ Hồ dưới sự chỉ huy của vị Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sau thất bại thảm hại này, thực dân Pháp phải đồng ý chấp nhận ký Hiệp định Genève.

Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần “Thỏa hiệp” và phần “Tuyên bố Cuối cùng” [Final Declaration] bao gồm rất nhiều điều khoản, nhưng tựu trung lại thì nội dung bao gồm: Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam - Campuchia - Lào. Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương. Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [bao gồm cả người miền Nam] tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp [bao gồm cả người miền Bắc] tập kết về miền Nam. 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền. 2 năm sau, tức ngày 20-7-1956, sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất lại Việt Nam.

Theo các quy định của Hiệp định Genève thì Việt Nam “tạm thời” bị chia cắt làm hai miền với một giới tuyến quân sự tạm thời. “…Giới tuyến quân sự không được coi là biên giới quốc gia và chỉ tồn tại cho đến khi hoàn thành Tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp… Các lực lượng quân sự nước ngoài phải rời khỏi Việt Nam... Giới tuyến quân sự không được coi là biên giới quốc gia” - [Hiệp định Giơnevơ 50 năm nhìn lại, NXB Chính trị Quốc gia]. Như vậy, theo Hiệp định Genève thì giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không phải là ranh giới về chính trị và lãnh thổ. Cũng theo Hiệp định Genève, giới tuyến quân sự tạm thời sẽ bị dỡ bỏ sau 2 năm khi hai miền Nam Bắc Việt Nam tổng tuyển cử tự do vào năm 1956.

2. Thực tiễn lịch sử sau đó đã chứng minh rằng đã không hề có bất cứ một cuộc bầu cử tự do nào được tổ chức sau đó, bởi đế quốc Mỹ đã can dự trực tiếp vào miền Nam Việt Nam để thay chân thực dân Pháp. Ở miền Nam, Thủ tướng Chính phủ Quốc gia của Bảo Đại đã tổ chức trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 do Thủ tướng của cái gọi là Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tổ chức để lật đổ chính Quốc trưởng của cái gọi là Quốc gia Việt Nam ấy. Bằng cuộc trưng cầu dân ý này, con bài mà người Mỹ hậu thuẫn là Ngô Đình Diệm đã thiết lập cái gọi là nền đệ nhất cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.

Ngay từ cuối năm 1950, khi thực dân Pháp ngày càng sa lầy trên chiến trường Đông Dương, đế quốc Mỹ đã dần dần nhảy vào thay thế thực dân Pháp. Vào cuối năm 1950, “Mỹ viện trợ cho Pháp ở Đông Dương 133 triệu USD và chuyển giao khối lượng lớn vũ khí, tàu chiến, máy bay chiến đấu, xe quân sự. Năm 1954, viện trợ của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương lên tới 1 tỷ USD [chiếm 78% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương” -
[Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học, NXB Chính trị quốc gia].

Cecil B. Currey, nhà sử học nổi tiếng người Mỹ trong cuốn sách Chiến thắng bằng mọi giá [Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp] cho biết, năm 1956, Allen Dulles, người đứng đầu của Cục Tình báo Trung ương [CIA] đã đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử ở Việt Nam diễn ra theo quy định của Hiệp định Genève thì “thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi”. Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tổng tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không”.

Edward Miller, TS Lịch sử Harvard, giáo sư Lịch sử Đại học Dartmouth, bang New Hampshire trong cuốn sách Liên minh sai lầm Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam cho rằng, có 3 nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng nhất và được giải thích phổ biến nhất hiện nay là lo ngại sự phát triển [trong sách của mình, ông gọi là bành trướng] của chủ nghĩa Cộng sản: “Cách giải thích phổ biến nhất về quan hệ đồng minh Mỹ - Diệm cho rằng đây là một sản phẩm của tính toán địa - chính trị của Mỹ thời Chiến tranh lạnh. Theo lý giải này, việc Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương xuất phát từ các quan ngại về sự bành trướng Xô viết. Việc ủng hộ Diệm đơn thuần chỉ là bước tiếp theo trong chiến lược ngăn chặn cộng sản mà Washington đã theo đuổi tại Đông Dương từ năm 1950, khi bắt đầu cung cấp tiền, vũ khí và cố vấn cho nỗ lực chiến tranh chống lại Việt Minh của Pháp. Sau thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, các nguyên thủ Mỹ cần một đối tác mới ở Việt Nam và họ không khỏi bị thu hút bởi thái độ kiên quyết chống cộng sản của Diệm”.

3. Thi hành Hiệp định Genève, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành chuyển quân tập kết ra Bắc. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Nam bộ đã tập kết ra miền Bắc với niềm tin và hy vọng 2 năm sau sẽ trở về bằng cuộc tổng tuyển cử như quy định của Hiệp định. Việt Nam dân chủ Cộng hòa đã 2 lần gửi công hàm cho chế độ Việt Nam Cộng hòa đề nghị tiến hành các bước hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nhưng đều bị từ chối dẫn tới việc chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.

Trả lời phỏng vấn nhà báo Regards vào ngày 18-11-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi thi hành triệt để các điều khoản đình chiến. Chúng tôi tiếc rằng các lực lượng Pháp không thi hành được như thế, mà còn làm trái nhiều là khác... Chúng tôi hết sức làm việc để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước Việt Nam...”.

Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Hãng Thông tấn Press Trust of India vào ngày 5-1-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một trong các nhiệm vụ cấp bách của chúng tôi là Thi hành đúng đắn Hiệp định Genève và Củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập, dân chủ trong toàn quốc”… Trước năm 1975, giữa đô thành Sài Gòn, nhà báo Nam Đình đã viết: “Tất cả những chế độ kế tiếp bắt đầu từ chế độ Ngô Đình Diệm cho tới ngày nay cũng trái với tinh thần Genève vì thiếu quyền tự quyết của dân tộc. Người Mỹ đã can thiệp sâu rộng vào tất cả mọi địa hạt ở miền Nam Việt Nam từ chánh quyền cho đến tất cả các cuộc bầu cử để tạo nên Hiến pháp và Quốc hội cho xứ này”.

Quan điểm này tiếp tục được ông Xuân Thủy, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhấn mạnh tại phiên họp lần thứ 10 của Hòa đàm Paris ngày 26-6-1968.

Gần 70 năm sau ngày Hiệp định Genève được ký kết, 46 năm nước Việt Nam tái thống nhất kể từ khi bị chia cắt, những vết thương đã lành. Những ai đang tâm xuyên tạc lịch sử, “lật sử” không chỉ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc mà còn vô ơn đối với sự hy sinh xương máu của các thế hệ cha anh.

Một câu hỏi lớn của lịch sử cần lời giải đáp là vì sao Mỹ can thiệp vào tình hình Việt Nam? Điều này cũng không khó để trả lời. Chắc chắn có rất nhiều nguyên nhân, song có lẽ một nguyên nhân sâu xa là Mỹ lo sợ sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh thắng trong cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp định Genève.

Viết Phước

Skip to first unread message

unread,

Dec 25, 2015, 2:30:12 AM12/25/15

Sign in to reply to author

You do not have permission to delete messages in this group

Sign in to report message as abuse

Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message

22.10.2015 Sơ Lược Vấn Đề Chủ đề này tôi đã đề cập tới trong bài “Sáu mươi năm hiệp định Genève 1954 và cuộc Di cư vĩ đại” đăng năm ngoái 2014, nhưng gần đây có vài thân hữu đã thảo luận với tôi về vấn đề này. Có người cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm sau năm 1954 đã không thi hành Hiệp định Genève tổ chức Tổng tuyển cử dự trù tháng 7 năm 1956 nên CS Hà Nội có cớ xâm chiếm miền nam bằng vũ lực. Tôi nghĩ chuyện này tuy xưa cũ nhưng vẫn còn được nhiều người quan tâm nên sẽ đóng góp thêm ý kiến, dữ kiện liên quan để vấn đề được sáng tỏ hơn. Tôi chỉ chú trọng riêng về đề tài này. Để tìm hiểu về Hiệp định Genève và Tổng tuyển cử thống nhất quí độc giả có thể coi trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, phần Phụ Lục trang 930-943. Quí vị cũng có thể tìm trên Wikipedia [Yahoo, Google], đề tái này được nói rất rõ và chi tiết, ngoài các tác giả Pháp, Mỹ như Jean Lacouture, Fredrik Logevall [1] cũng viết về vấn đề này trong sách của họ. Xin Nói Sơ Lược Về Hiệp Định Genève Ngày 26-4-1954 Hội nghị Genève khai mạc để giải quyết các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Cuộc họp thảo luận về Đông Dương thực sự bắt đầu ngày 8-5-1954 [sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ]. Các nước tham dự và đại diện gồm Anh, ngoại trưởng Eden; Pháp, Bidault, sau ngày 19-6 là Chauvel; Mỹ, Thứ trưởng ngoại giao Smith; Nga, ngoại trưởng Molotov; Trung cộng, Thủ tướng Chu ân Lai; Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Quốc Định, đầu tháng 7 là Trần Văn Đỗ; Việt Minh Thủ tướng Phạm văn Đồng. Hiệp định được ký kết ngày 20-7-1954 gồm 4 văn kiện 1- Hiệp định đình chiến tại Việt Nam 2- Hiệp định đình chiến tại Lào 3- Hiệp định đình chiến tại Cao Mên 4- Tuyên bố cuối cùng, không có chữ ký Tôi xin đi ngay vào đề tài, Hiệp định Genève được ký ngày 20-7-1954, nội dung chính nói về đình chiến, đất nước chia đôi tại vĩ tuyến thứ 17, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [Việt Minh] đóng ở trên chính phủ Quốc Gia Việt Nam và quân Pháp rút vào nam dưới vĩ tuyến 17. Ngày hôm sau 21-7-1954 Hội nghị nhóm họp trở lại và cùng nhau thảo bản Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 gồm 13 điểm [2] Bản tuyên bố cuối cùng về tái lập hòa bình Đông Dương không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị, trong đó điều 7 nói nguyên văn: “Hội nghị tuyên bố, giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức tháng 7-1956” Ta nên chú ý, trước nhất vấn đề Tổng tuyển cử dự trù năm 1956 chỉ là nói miệng với nhau [oral statements] và không có chữ ký [unsigned document] của bất cứ phái đoàn nào, nó không có nhiều giá trị về mặt pháp lý. Trên thực tế cuộc tổng tuyển cử tại VN năm 1956 không được các cường quốc quan tâm kể cả Nga, Trung Cộng, người ta chỉ muốn một hiệp định chấm dứt chiến tranh. Thứ hai nó không ấn định rõ ràng hai bên phải tổ chức bầu cử ra sao? không có những điều khoản chi tiết về Tổng tuyển cử. Nó ngụ ý hai bên Bắc và Nam tự giải quyết lấy vấn đề, tùy theo thiên chí của hai bên, hoàn toàn không mang tính mệnh lệnh, quy định phải thực hiện, nói chung mơ hồ. Nó không ấn định bầu theo thể thức như thế nào, ai thắng sẽ được quyền lợi gì? thua sẽ ra sao? có thể hai bên sẽ đưa ra những thể thức thí dụ như dưới đây: Nếu miền Bắc thắng cử thì ông Hồ Chí Minh sẽ làm Chủ tịch đứng đầu cả nước, ông Ngô Đình Diệm thất cử sẽ xuống làm thường dân. Ngược lại nếu ông Diệm thắng cử sẽ làm Tổng thống cả hai miền, ông Hồ sẽ xuống làm phó thường dân. Hoặc theo thể thức khác như nếu miền Bắc thắng, ông Hồ Chí Minh sẽ làm Chủ tịch đảng kiêm chủ tịch nước, ông Ngô Đình Diệm sẽ làm phó chủ tịch đảng và phó chủ tịch nhà nước và dĩ nhiên ông Diệm phải vào đảng. Trường hợp ông Ngô Đình Diệm thắng cử thì sẽ làm Tổng thống cả hai miền, ông Hồ Chí Minh sẽ làm Phó Tổng thống và phải bỏ đảng. Chuyện này thật không tưởng và mơ hồ. Lật Tẩy Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa từ chối Tổng tuyển cử vì cho rằng miền Bắc không bảo đảm có bầu cử tự do, dân chủ. Hà Nội vận động quốc tế kêu gọi các đồng chủ tịch Hội nghị Genève [Anh, Nga] để thực hiện Tổng tuyển cử. Tháng 6 năm 1955 Hà Nội tuyên bố sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với Sài Gòn nhưng không được đáp ứng. Trong khi tiến trình yêu cầu và từ chối đàm phán vẫn tiếp diễn, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa [Hà Nội] còn cố tái lập quan hệ thương mại giữa hai miền, để giúp “nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xã hội, nhằm tạo thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống bình thường của người dân”. Hà Nội đã gửi văn thư cho miền nam VN đề cập Tổng tuyển cử những năm 1955, 1956, 1957… và thậm chí sau khi đã phát động chiến tranh du kích tại miền nam 1958, 1959, 1960 nhưng họ vẫn yêu cầu miền Nam đàm phán. Về mặt ngoại giao, tuy Hà Nội vận động kêu gọi thực hiện tổng tuyển cử nhưng chính Trường Chinh khi sang Mạc Tư Khoa họp Đại hội đảng CS Liên Xô năm 1956 đã tiết lộ với thứ trưởng ngoại giao Liên Xô Vasilii Kuznetzov rằng Miền Bắc không hội đủ điều kiện để tổ chức bầu cử thống nhất. Việc vận động quốc tế chỉ là phương thức tuyên truyền, cũng là cách giải thích thất bại với quần chúng trong nước.[3] Các cường quốc kể cả Nga, Trung Cộng đã không ủng hộ lời kêu gọi tổ chức tuyển cử của miền Bắc mà muốn hai miền Nam- Bắc được giữ nguyên như thế [ở đâu ở đó]. Trung Cộng cho rằng việc tổ chức bầu cử tự do và thống nhất Việt Nam, không thể được thực hiện trong thời gian này Sau khi ký Hiệp định Genève một năm Thủ tướng Ngô Đình Diệm nói không từ chối Tổng tuyển cử thống nhất hai miền nhưng thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ, ngoài ra ông không tin tưởng miền Bắc có thể bảo đảm bầu cử tự do. Thực ra những năm 1955, 1956 tại miền Bắc cuộc cải cách ruộng đất dẫn tới nông dân nổi dậy ở vùng lân cận Vinh, người dân vô cùng căm phẫn. Miền Nam có chiến sự với các giáo phái khiến Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Đông Dương [Ấn Độ, Ba Lan, Gia Nã Đại] không tin có thể có bầu cử tự do, nghiêm túc được. Ủy hội cũng không hy vọng bảo đảm một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị. Ủy hội đồng ý với quan điểm của Quốc gia Việt Nam [miền Nam] rằng miền Bắc không đủ điều kiện tổ chức bầu cử công bằng. Nguyên văn trả lời của Thủ tướng Ngô Đình Diệm: “Chính sách của chúng tôi là chính sách hoà bình. Nhưng không có gì có thể khiến chúng tôi đi chệch khỏi mục tiêu của chúng tôi là sự thống nhất đất nước, thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ. Vì dân tộc, chúng tôi sẽ đấu tranh hết sức mình cho sự thống nhất đất nước. Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ. Tuy nhiên nếu những cuộc bầu cử tạo thành một trong những nền tảng cơ bản của nền dân chủ thật sự thì chúng chỉ có ý nghĩa với điều kiện chúng hoàn toàn tự do. Hiện nay, thực tế phải đối mặt với chế độ áp bức của Việt Minh, chúng tôi nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc.” [4] Quan sát viên của Ủy hội Quốc tế đồng ý với quan điểm của ông Diệm rằng miền Bắc không hội đủ điều kiện tổ chức bầu cử công bằng. CS Hà Nội vận động quốc tế thi hành Hiệp định Genève, thực hiện Tổng tuyển cử chỉ là để tuyên truyền, lấy cớ xin hiệp thương hai miền vì chính họ cũng thú nhận không đủ điều kiện tổ chức bầu cử. Chính Trung Cộng sau này đã lật tẩy bộ mặt thật của đàn em Việt Cộng gian trá, Hà Nội không muốn Tổng tuyển cử chứ không phải họ tha thiết thống nhất bằng hòa bình. Theo tài liệu Quân sử của Bộ Trung Hoa Quân Mưu thì sự thất bại của Cải cách ruộng đất đã khiến cho CSVN không thể thực hiện Tổng tuyển cử được, cái hy vọng thống nhất bằng lòng dân qua bầu cử của CSVN sụp đổ nên họ quay lưng với Hiệp định để gây chiến tại miền nam.[5] Hiệp thương là gì? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố tái lập quan hệ thương mại giữa hai miền, để giúp “nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xã hội, nhằm tạo thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống bình thường của người dân.” Cái này gọi nôm na là cò gỗ mổ cò thịt, miền Bắc từ sông Bến Hải trở lên, đông dân đất cầy trên sỏi đá, thiếu lúa gạo trầm trọng sau Hiệp định Genève muốn dụ hiệp thương để kiếm chút cháo của vựa lúa miền nam. VNCH giao thương với nhiều nước trên thế giới chẳng cần miền Bắc, vả lại Hà Nội lợi dụng cơ hội để đưa gián điệp, nằm vùng vào trà trộn thực hiện những âm mưu đen tối sau này. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa muốn lập quan hệ thương mại giữa hai miền[6] để trao đổi văn hóa, kinh tế xã hội. Hội nghị Trung ương đảng lần thứ tám [khóa hai] dự kiến: “Muốn thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, cần phải tiến hành thống nhất từng bước; từ chỗ tạm thời chia làm hai miền tiến đến chỗ thống nhất chưa hoàn toàn, từ chỗ thống nhất chưa hoàn toàn sẽ tiến đến chỗ thống nhất hoàn toàn.” Cũng như vấn đề bầu cử, chính quyền miền Nam từ chối cả việc thảo luận hiệp thương. Cái trò mập mờ đánh lận con đen của Hà Nội chẳng bịp được ai, vải thưa không che được mắt thánh. Họ đã đánh giá quá thấp hiểu biết của miền nam, tưởng như chính quyền này không hay biết gì, người ta đã quá rõ bộ mặt thật của Việt Minh từ 10 năm trước. Trong hồi ký White House Years, Chương thứ 8, The Agony of Vietnam, Kissinger nói Hà Nội không bao giờ muốn Hiệp định và hòa bình, họ chỉ muốn chiến thắng quân sự. Thật vậy, người CS chủ trương chính quyền đẻ ra từ họng súng, năm 1954 sau Hiệp định Genève họ để lại rất nhiều cán bộ, đảng viên nằm vùng, những năm 1957, 1958, 1959… tại miền nam Việt Cộng nổi lên y như ong vỡ tổ. Năm 1973, ký Hiệp định Paris, Cộng quân nhất định không chịu rút về Bắc, họ để lại gần hai trăm ngàn quân tại miền nam. Hiệp định Paris chưa ráo mực, CSBV mở xa lộ Đông Trường Sơn ngày đêm chuyển vận vũ khí vào nam chờ ngày tổng tấn công. CSVN thừa biết bầu cử, Tổng tuyển cử rất khó ăn, cho dù thắng cử cũng không thể tiêu diệt hết đối phương ngay mà phải mất khá nhiều thời gian cho nên dùng bạo lực cách mạng như Lénine đã dậy là chắc ăn nhất. Ai Bầu Cho Hồ Chí Minh? Tác giả GS Fredrik Logevall trong cuốn sách nổi tiếng mới xuất bản gần đây, một công trình nghiên cứu lớn về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất có nói:[7] Cả Nga và Trung Cộng đều muốn hoãn Tổng tuyển cử mà Phạm Văn Đồng đề nghị thực hiện sớm hơn, Việt Minh tin là họ sẽ thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc. Các nhà chính trị Tây phương Pháp, Mỹ, Anh biết là ông Hồ sẽ thắng trong cuộc Tổng tuyển cử nên muốn định ngày càng xa hoặc không định ngày càng tốt. Tổng thống Eishenhower nói có thể 80% người dân Việt Nam muốn bầu cho Hồ Chí Minh hơn là cho Quốc trưởng Bảo Đại. Phía CS cả Chu Ân Lai, Molotov đều không muốn bầu cử sớm, ngày 23-6-1954 Thủ tướng Pháp nói bầu cử khi nào hai miền đã bình tâm trở lại. Chu Ân Lai nói đàm phán thỏa thuận chính trị do hai chính phủ VN [Nam, Bắc], ông không nói họ cần thương thuyết ngay. Ngoại trưởng Nga Molotov đề nghị năm 1955, Tây phương từ chối, cuối cùng ông đề nghị tháng 7-1956 tức hai năm sau. Các nhà sử gia, chính khách Tây phương thường lý luận đơn giản theo kiểu Tam đoạn luận: Người VN thù ghét thực dân Pháp, ông Hồ Chí Minh chống Pháp nên được dân ủng hộ. Người VN thù ghét Tây, ông Diệm, Ông Bảo Đại theo Tây không được dân ủng hộ. Thực tế cho thấy hai tuần sau khi ký Hiệp Định người dân miền Bắc từ bỏ quê cha đất tổ ồ ạt di cư vào Nam bằng máy bay tai các phi trường Hà Nội, Hải Phòng và bằng tầu thủy tại Hải Phòng. Tổng cộng có hơn nửa triệu người di cư bằng tầu thủy, hơn 200 ngàn di cư bằng máy bay, khoảng trên 100 ngàn di cư bằng đường bộ, thuyền hay phương tiện riêng, sau khi bức màn sắt buông xuống nhiều người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam. Vì số người di cư quá đông nên Cao ủy Pháp đã xin Việt Minh cho gia hạn thêm 3 tháng, ngày cuối cùng là 19-8-1955 [thay vì 19-5-1955]. Trong khi đó có hơn 100 ngàn người ra Bắc hầu hết là đảng viên, cán bộ tập kết cùng gia đình, có hơn 4,000 người di cư vào Nam xin trở về Bắc. Tổng cộng có hơn một triệu người bỏ Việt Minh di cư vào Nam theo chính phủ Quốc gia là một cái tát vào mặt Bác và Đảng, hơn một triệu lá phiếu bằng chân cho thấy ai bỏ phiếu cho ai? Cuộc di cư bị cấm đoán ngăn cản rất nhiều, sau ngày 20-7-1954, dân Hà Nội có 80 ngày di cư, Hải Dương 100 ngày, Hải Phòng là địa điểm tập trung cuối cùng có 300 ngày. Chỉ những người sống ở thánh phố là ra đi dễ dàng, sau 80 ngày miền quê muốn đi Hải Phòng từ Hà Nội phải có giấy thông hành, thường là xin của bà con, họ hàng [ở Hà Nội] về cạo sửa làm giả để qua mắt công an Việt Minh. Những người vùng hậu phương muốn đi cũng chẳng biết cách nào. Mặc dù di cư khó khăn nhiêu khê như vậy mà cũng đã có hơn một triệu người vào Nam, nếu được đi tự do thoải mái thì số người từ bỏ Việt Minh sẽ tăng hơn nhiều. Không riêng gì TT Eisenhower nghĩ Hồ Chí Minh được lòng dân hơn Bảo Đại, Walter Robertson phụ tá Bộ trưởng ngoại giao Mỹ cũng cho là Bảo Đại theo Tây, bù nhìn bị người dân khinh ghét.[8] Đầu năm 1947, khi quân Pháp tới người dân bỏ nông thôn, thành thị theo Việt Minh vào hậu phương kháng chiến. Theo lời kể của ông Đoàn Thêm.[9] khi chính phủ Bảo Đại về nước chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950 thì người dân tại hậu phương Việt Minh hồi cư tấp nập về thành thị, các tỉnh Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Nội, Sơn Tây trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây số người trở về lên tới 35 ngàn người. Theo Đoàn Thêm, người dân bỏ già Hồ về với cựu hoàng. Thử hỏi tại sao người dân lại bỏ Hồ Chí Minh về với Bảo Đại trong khi ông vua này thân Tây? Tâm lý chung ai cũng muốn ấm no hạnh phúc, chẳng ai muốn sống trong cảnh đói khổ cơ hàn. Giữa cuộc đời đói cơm rách áo, đóng khố, bữa đói bữa no, khoai sắn do họ Hồ mang lại và cuộc sống tiện nghi, sung túc tại vùng Quốc gia, vùng thuộc Pháp thì người dân chọn sống chỗ nào? ở đây không nói tới chính trị mà chỉ chú ý khía cạnh xã hội, tâm lý, kinh tế của con người. Không ai mê nổi cái chính sách bần cùng hóa nhân dân của họ Hồ và tập đoàn tay sai Trung Cộng. TT Eisenhower và một số chính khách sử gia Tây phương cho rằng người dân sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh là hoàn toàn vô căn cứ, chẳng lẽ họ không chấp nhận một cuộc sống ấm no để lựa chọn một xã hội mọi rợ, bán khai, ăn khoai, đóng khố, chọn một cuộc sống đói khổ phản văn minh, phản tiến bộ? Tại sao chính phủ miền Nam từ chối nói chuyện với Hà Nội về tổng tuyển cử? Thủ tướng Diệm biết chắc sẽ không có bầu cử tự do, Hà Nội sẽ đe dọa người dân phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh. Muốn tổ chức bầu cử tự do có quốc tế giám sát phải kêu gọi các nước đồng chủ tịch, kêu gọi Liên Hiệp quốc đứng ra bảo đảm bầu cử nhưng chuyện này rất khó thực hiện Theo lời kể của Kissinger khi CSBV vi phạm Hiệp định Paris tấn công Phước Long cuối năm 1974, ông ta đã gửi văn thư xin can thiệp đến các nước đã tham dự Hội nghị quốc tế về VN cũng như bốn nước trong Ủy ban quân sự bốn bên [Canada, Hungary, Ba Lan, Nam Dương] [10]. Hầu hết không phúc đáp, chỉ có một hai nước trả lời vu vơ, sau khi ký Hiệp định, hội họp xong người ta có khuynh hướng cao chạy xa bay, không muốn liên hệ tới chuyện đã qua. Kết Luận Miền Nam VN không chấp nhận đề nghị Tổng tuyển cử vì: -Thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ. -Chính phủ Quốc gia Việt Nam không ký kết bất cứ văn thư nào của Hiệp định Genève 20-7-1954. -Hiệp định không đề cập Tổng tuyển cử mà nó chỉ được nói tới ngày hôm sau trong lời Tuyên bố cuối cùng [final declaration] điều 7, một văn kiện không có chữ ký [unsigned document] mà chỉ là nói miệng với nhau [oral statements], thiếu căn bản pháp lý. -Điều 7 ngắn gọn, mơ hồ, không có chi tiết qui định thực hiện, nó có nghĩa nhiệm ý [option] tùy hai bên thương lượng. – Cuộc bầu cử tại miền Bắc sẽ không có tự do mà dưới sự chỉ đạo của Việt Minh. Ủy Hội Quốc Tế gồm Ấn Độ, Ba Lan, Gia Nã Đại không muốn đứng ra tổ chức Tổng tuyển cử cho rằng không thể có bầu cử tự do. Hà Nội tích cực kêu gọi quốc tế thực hiện Tổng tuyển cử nhưng miền Bắc không hội đủ điều kiện để tổ chức như Trường Chinh đã thú nhận với Thứ trưởng ngoại giao Nga năm 1956. Cuối cùng việc vận động chỉ là để tuyên truyền hạ thấp miền nam VN không có thiện chí thống nhất đất nước và để có cớ xâm lược bằng vũ lực. Dù sao CSVN cũng đã tuyên truyền thành công lừa bịp được dư luận trong và ngoài nước, ngay tại miền Nam nhiều người tin rằng chính phủ Diệm sợ thua nên không dám Tổng tuyển cử. Giới khuynh tả Tây phương đã lên án Ngô Đình Diệm ngoan cố khao khát quyền thế độc tài, nhưng độc tài Ngô Đình Diệm và độc tài Hồ Chí Minh cái nào ác ôn? Họ khen lấy khen để Hồ Chí Minh là nhà ái quốc xứng đáng được cai trị cả nước VN, họ muốn áp đặt một chế độ mà người dân VN không chấp nhận. Nói về cái cái gian của Việt Minh năm 1945, 1946, Tướng Navarre Tư lệnh Đông Dương đã ghi nhận: “Họ rất giao quyệt, khôn khéo nên đã được Mỹ giúp đỡ nhiều mà còn được chính phủ Pháp lâm thời ủng hộ. Để lấy lòng Mỹ, họ vờ đóng vai phong trào quốc gia chống Nhật và Thực dân. Để được lòng chính phủ Pháp mới [1945], họ tỏ ra liên kết nước Việt Nam mới [tức VM] vào nước Pháp mới. Họ lừa những người này, gạt những người khác. Họ giả vờ đóng kịch kháng chiến chống Nhật mà Mỹ chủ trương. Họ vờ cảm tình với tân chính phủ Pháp đồng thời họ ra sức khích động nhân dân chống Pháp”.[11] Hai mươi năm sau Hiệp Định Genève 1954, Hà Nội đã tiến hành Tổng tuyển cử bằng xe tăng đại bác năm 1975, con đường duy nhất mà họ có thể thống nhất đất nước. Nhưng ở đây chỉ là thống nhất trong nô lệ. Trọng Đạt Chú Thích [1] Jean Lacouture: End of a War, Indochina 1954, Chương 23 từ trang 301-313. Fredrik Logevall: Embers of War, The Fall of An Empire And The Making of America’s Vietnam, 2012, trang 605-611 [2] Hiệp định Genève 1954, Wikipedia [3] Gaiduk, Ilya. Confronting Vietnam. Stanford, CA: Stanford University Press, 2003. Trang 78. [Wikipedia] [4] Trích tuần báo Việt Nam [Vietnam bulletin] của tòa Đại sứ VN tại Mỹ ngày 16-7-1955 trang 24. [Wikipedia] [5] Diễn Đàn Việt Thức, Vai Trò CS-Trung Quốc trong Chiến Tranh Việt Nam, Nhất Thanh lược dịch, Chinese Military Advisory Group-CMAG [6] Vietnam News Agency, 7 tháng 2 năm 1955 [Wikipedia] [7] Embers of War, The Fall of An Empire And The Making of America’s Vietnam, trang 610 [8] Embers of war trang 495 [9] Đoàn Thêm: Những Ngày Chưa Quên, quyển thượng trang 138-140, 173-174, 206-210 [10] Years ot Renewal trang 485, 486

[11] Agonie de l’Indochine, trang 13.

unread,

Dec 25, 2015, 3:49:07 AM12/25/15

Sign in to reply to author

You do not have permission to delete messages in this group

Sign in to report message as abuse

Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message

Về việc bãi bỏ việc Tổng Tuyển Cử để chọn một Tổng Thống hoặc lãnh tụ, chung cho nước Vietnam theo Hiệp Ước Geneve của TT VNCH Ngô Đình Diệm là hợp lý ! Chẳng có gì sai quấy với nhiều lý do. Lý do chính là Hochiminh và VC Hanoi đã không tôn trọng hiệp ước đã ký kết và không thật lòng muốn thống nhất đất nước theo thể chế Tự Do Dân Chủ qua lá phiếu bầu của người dân. Anh Trong Đạt giải thích sự cố này tào lao và dài dòng văn tự quá sức khủng !

;-]]]]]]]]

unread,

Dec 25, 2015, 9:13:52 AM12/25/15

Sign in to reply to author

You do not have permission to delete messages in this group

Sign in to report message as abuse

Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message

Ôi giời ôi, cân gì phải dài dòng văn tự kể lể vì nếu muốn cho ngon thì sau ngày 30-4-1975 thống nhất 2 miền Nam Bắc tại sao không làm 1 cuộc tổng tuyển cử cho dân chúng lựa chọn Tự Do hay là chọn Nô lệ CộngSản Just so simple like that idiot ông ơi Hiển nhiên nếu CongSan là tốt lành nhưng sao lại chỉ có vài quốc gia theo CongSan như China VietNam Cuba N-Korea và ngay cả Russia vẫN còn thủm mùi phân của USSR Tòan thế giới ai ai cũng muốn ỉa vào mặt nguời CongSan Amen ////////////////// @> -Thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ.

unread,

Dec 25, 2015, 9:58:46 PM12/25/15

Sign in to reply to author

You do not have permission to delete messages in this group

Sign in to report message as abuse

Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message

Ngu dốt lớn nhất của Vũ Bình là dối trá:

//www.youtube.com/watch?v=FGFbGKUi-_I&feature=youtu.be

rồi ngồi kiết già giữa giao lộ, rồi cũng tự tay ngài châm thêm xăng, và quẹt lửa vào người... -- Monkey muo^'n tha`nh ngu+o+`i ne`..Kho^ng bie^'t ne^n so sa'nh vo+'i con gi`. Tao chi? bie^t xu+o+?ng -de? o+? zie^.t lam nuo^i -dia? va` ma`y cha['c sinh ra no+i -do'.. I do not think tha[`ng Pooh eats shit la` za^n MIT.. he is very very low class of edu or non edu at all. [vũ bình, Glendora, CA, gọi nà óc hột đậu, danh pất hư truyền] He is a commie slave, his duty is to disturb oversea VNese on the net.. you can see any subject on the net that tells the true about CSVN then pooh eats shit jumps up/down and replies right away.. he got paid to monitor SCV especially.. Watch your back when you plan to go VN..

//i.imgur.com/EFqLug1.jpg

ngày nào còn vẹm, ngày đó Vũ Bình còn liếm trôn vẹm. Pooh Vũ Bình nay đi liếm trôn chệt miệng càng thối hơn liếm trôn vẹm. thằng vũ bình muốn pớt ngu, thay vì đi liếm trôn vẹm và chệt, từ nay đi liếm trôn ông Lữ Giang đi nào!!!! Thằng Pooh giao điểm nằm vùng Chung Ngọc theo Bác, nó khùng nó điên.

//i.imgur.com/OU3SQZy.gif


Video liên quan

Chủ Đề