Theo lợi thế so sánh, khi giao thương, các quốc gia có lợi ích hay nhiều phụ thuộc:

Mục lục

Phân tích của Ricardo về lợi thế so sánhSửa đổi

Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã nghiên cứu và chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và gọi kết quả này là quy luật lợi thế so sánh. Ông đã phân tích như sau:

Bảng 1 - Chi phí về lao động để sản xuấtSản phẩm Tại Bồ Đào Nha [giờ công] Tại Anh [giờ công]
1 đơn vị lúa mỳ 15 10
1 đơn vị rượu vang 30 15

Trong ví dụ này Anh có lợi thế tuyệt đối so với Bồ Đào Nha trong sản xuất cả lúa mỳ lẫn rượu vang: năng suất lao động của Anh gấp hai lần Bồ Đào Nha trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy nghĩ thông thường, trong trường hợp này Anh sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ Bồ Đào Nha cả. Thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận hoàn toàn khác:

  • 1 đơn vị rượu vang tại Bồ Đào Nha sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mì [hay nói một cách khác, chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 2 đơn vị lúa mì]; trong khi đó, tại Anh để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mì [hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 1,5 đơn vị lúa mì]. Vì thế ở Anh sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Bồ Đào Nha.
  • Tương tự như vậy, ở Bồ Đào Nha, sản xuất lúa mì rẻ hơn tương đối so với Anh [vì chi phí cơ hội chỉ có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Anh phải mất 2/3 đơn vị rượu vang]. Hay nói một cách khác, Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mì còn Anh có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang. Để thấy được cả hai nước sẽ cùng có lợi nếu chỉ tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh: Bồ Đào Nha chỉ sản xuất lúa mì còn Anh chỉ sản xuất rượu vang rồi trao đổi thương mại với nhau, Ricardo đã làm như sau:
  • Ông giả định nguồn lực lao động của Bồ Đào Nha là 270 giờ công lao động, còn của Anh là 180 giờ công lao động.
  • Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá và theo chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra như sau:
Bảng 2 - Trước khi có thương mạiQuốc gia Số đơn vị lúa mì Số đơn vị rượu vang
Bồ Đào Nha 8 5
Anh 9 6
Tổng cộng 17 11
  • Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mì rồi trao đổi thương mại với nhau thì số lượng sản phẩm được sản xuất ra sẽ là:
Bảng 3 - Sau khi có thương mạiĐất nước Số đơn vị lúa mì Số đơn vị rượu vang
Bồ Đào Nha 18 0
Anh 0 12
Tổng cộng 18 12

Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mì và rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại [là lúc hai nước cùng phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai loại sản phẩm]. Lưu ý rằng phân tích của Ricardo kèm theo những giả định sau:

  • Không có chi phí vận chuyển hàng hoá.
  • Chi phí sản xuất cố định không thay đổi theo quy mô.
  • Chỉ có hai nước sản xuất hai loại sản phẩm.
  • Những hàng hoá trao đổi giống hệt nhau.
  • Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo.
  • Không có thuế quan và rào cản thương mại.
  • Thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết nơi có hàng hoá rẻ nhất trên thị trường quốc tế.

Số 18 - Vấn đề đánh giá các nguồn lực có lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta

02:18 22/03/2012

Vấn đề đánh giá các nguồn lực có lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế đối ngoại ở nước ta

Tác giả: Hà Xuân Vấn.

Có nhiều nguồn lực sản xuất có thể phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia, có nguồn lực đo, đếm được, song cũng có những nguồn lực khó đo đếm. Đặc biệt trong điều kiện đất nước mở cửa, tăng cường giao lưu hợp tác, buôn bán với bên ngoài thì các nguồn lực này có vị trí, thứ bậc khác nhau trong việc tham gia hình thành giá trị, giá cả sản phẩm. Đó là do có sự khác biệt giữa các vùng địa lý, kinh tế, lịch sử xã hội và phân công lao động xã hội của mỗi khu vực và mỗi nước. Vì vậy, đánh giá đúng các nguồn lực sẽ phát huy sức mạnh của nó và đem lại ích lợi lớn lao cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.

Việc đánh giá cũng có nhiều ý kiến khác nhau nhưng phần lớn đều dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricarđô [1772-1823] nhà kinh tế học người Anh. Lý thuyết này cho rằng trong trao đổi quốc tế thì hai bên đều có lợi. Tư tưởng lợi thế so sánh đã trở thành quy luật kinh tế nói chung và kinh tế quốc tế nói riêng được áp dụng cho đến ngày nay. Sau này nhà kinh tế học như Eh. Heckscher, Bertil Ohlin. Gottfried Haberle, Samuelson... bổ sung hoàn thiện thành lý thuyết về lợi thế các yếu tố sản xuất và chi phí cơ hội của một sản phẩm. Tất cả đều thống nhất rằng : thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia khi mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài dù các nguồn lực sản xuất trong nước có lợi thế tuyệt đối hay không. Ngày nay mọi lợi thế đều ở trong thế cạnh tranh giữa các quốc gia. Theo Porter, nhà kinh tế học người Mỹ thì lợi thế cạnh tranh của một quốc gia được quyết định bởi 6 nhân tố :

a] Các điều kiện sản xuất vốn có [lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý...].

b] Các điều kiện thị trường nội địa.

c] Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên đới.

d] Chiến lược và cơ cấu của các công ty; cạnh tranh trong nội bộ ngành.

đ] Chính sách và tác động của Chính phủ.

e] Các nhân tố ngẫu nhiên.

Theo Diễn đàn kinh tế thế giới [World Economic Forum - WEF] và Viện phát triển quản lý Quốc tế [International Institute For Management Development - IMD] người ta dựa vào một loạt các thông số về : tiềm lực kinh tế nội địa, quốc tế hoá nền kinh tế, chính phủ, tài chính tín dụng, cơ sở hạ tầng... để xếp thứ tự các quốc gia có lợi thế cạnh tranh. Tuy có một số điểm khác nhau trong đánh giá, song cả hai cách phân loại trên đều nhất trí về những nhân tố để một quốc gia có lợi thế cạnh tranh là : nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, Chính phủ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý v.v...

Ơ nước ta khi đánh giá các nguồn lực sản xuất có lợi thế so sánh để phát triển kinh tế đối ngoại, người ta thường đề cập đến 3 nguồn lực cơ bản: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý thuận lợi của đất nước. Theo Porter, đây cũng là nhân tố đầu tiên để xem xét một quốc gia có lợi thế hay không, và lợi thế như thế nào so với các nước trên thế giới.

+ Nguồn nhân lực : Hiện nay [1997] dân số nước ta hơn 76 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới, trong đó có khoảng 50% là lực lượng lao động. Trung bình mỗi năm có khoảng trên 1 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động. Giá lao động của người Việt Nam khá rẻ. Theo điều tra của công ty Werner International ở 51 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới [1996], lương trung bình 1 giờ trong ngành dệt Việt Nam là 0,39 USD. Đây là mức thấp so với nhiều quốc gia và lãnh thổ khác. Chỉ số này chỉ bằng 1: 1,18 Indonesia; 1: 1,23 Trung Quốc; 1: 1,49 Â'n Độ; 1: 1,64 Ai Cập; 1: 34 Pháp; 1: 40 Italia; 1: 65,7 Nhật Bản v.v... Điều đó tạo ra lợi thế cho Việt Nam khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Người Việt Nam có truyền thống lao động cần cù, có tinh thần vượt khó và đoàn kết cao, thông minh sáng tạo, có khả năng nắm bắt khoa học kỹ thuật hiện đại và ứng dụng nó, có khả năng thích ứng với những tình huống phức tạp. Song, tỷ lệ tăng dân số cao tạo ra lực lượng lao động lớn, một mặt gây sức ép với nền kinh tế, mặt khác tạo ra thị trường lao động cung lớn hơn cầu. Người Việt Nam hạn chế về thể lực, trình độ kỹ thuật, kỷ luật, quản lý, kinh nghiệm sản xuất và lại mang nặng tâm lý của người lao động sản xuất nhỏ. Đây chính là hạn chế về chất lượng của người lao động Việt Nam. Theo chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI [Human Development Index] dựa trên các thông số: tuổi thọ trung bình, trình độ học vấn, tri thức, số năm đi học, thu nhập quốc dân v.v... cho thấy về nguồn nhân lực của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc [1994] ở các nước trong khu vực là : Hồng Kông 24 ; Hàn Quốc 32 ; Singapore 43 ; Thái Lan 54 ; Malaixia 57 ; Trung Quốc 94 ; Philippin 99 ; Indonesia 105 và Việt Nam 106.

Như vậy, một quốc gia có dân số đông, lực lượng lao động nhiều chưa hẳn là một quốc gia mạnh, thực tế các quốc gia trong khu vực có dân số lớn hơn nước ta nhiều nhưng cũng chỉ là những quốc gia đang phát triển : Trung Quốc, Indonesia, Â'n Độ... Một quốc gia mạnh trong phát triển kinh tế phải thể hiện được tốc độ phát triển của nó, sự năng động để vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ nhằm đạt hiệu quả cao trong phát triển kinh tế xã hội, sự nhanh nhạy nắm bắt thời cơ phát triển. Kết quả nghiên cứu NIEs và ASEAN cho thấy nhân tố đầu tiên quyết định thành công trong phát triển kinh tế là tư chất của con người, trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý, sự lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế, những giải pháp có tính khả thi phù hợp điều kiện dân tộc, thời đại để khơi dậy sức mạnh của dân tộc, khai thác tiềm năng của đất nước, đặc biệt là phát huy nguồn lực có lợi thế so sánh của đất nước để tham gia vào thị trường của khu vực và thế giới. Có thể nói thắng lợi của NIEs, ASEAN chính là kết quả lao động của trí tuệ, Singapore 3 triệu dân, Hồng Kông 5,8 triệu... những quốc gia, lãnh thổ có dân số ít nhưng có những bước phát triển kinh tế thần kỳ. Với lực lượng lao động lớn ở nước ta khi tham gia vào phân công lao động khu vực và quốc tế ta sẽ có một nguồn lực quan trọng, một điều kiện thuận lợi, một lợi thế cần thiết. Song yếu tố quyết định là tính trí tuệ của lao động. Với truyền thống lao động, học tập trải qua những thử thách của lịch sử dân tộc, nguồn lực lao động của người Việt Nam sẽ được nhân lên mạnh gấp nhiều lần khi lao động đó chứa đựng trí tuệ, tầm cao của thời đại. Vì thế, chăm lo sự nghiệp giáo dục đào tạo cho toàn xã hội, bồi dưỡng văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động là nuôi dưỡng và phát huy nguồn lực với đầy đủ tính chất ưu thế của nó. Nếu biết đầu tư và đầu tư đúng nguồn lao động sẽ không bị cạn kiệt khi khai thác mà ngược lại càng khai thác càng phát triển. Chăm lo bồi dưỡng nguồn nhân lực, lợi ích mang lại không chỉ đạt mức dần dần mà còn có những lúc đột biến. Chỉ có như thế nguồn nhân lực ở nước ta mới vừa có lợi thế về số lượng vừa đạt cả chất lượng khi mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

+ Nguồn tài nguyên thiên nhiên : Tài nguyên thiên nhiên ở nước ta đa dạng và phong phú bao gồm đất đai, rừng biển, nguồn nước, khoáng sản đủ loại, khí hậu [sức gió, ánh nắng, lượng mưa để có thể hình thành năng lượng tự nhiên] và tài nguyên du lịch. Có thể nói rằng với một nguồn tài nguyên như thế đất nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi và tiềm năng để phát huy lợi thế của mình so với một số nước NIEs, Đông A' [những nước có thị trường xuất nhập khẩu lớn ở nước ta]. Vấn đề đặt ra là sử dụng nó như thế nào ? Theo cách nhìn truyền thống, tài nguyên thiên nhiên là điều kiện ưu đãi của tự nhiên, nhiều quốc gia trở nên khá hơn nhờ những thuận lợi đó. Vì thế, thông thường khi mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài đẩy mạnh khai thác tài nguyên sẵn có của đất nước là việc làm đầu tiên, bình thường của mọi quốc gia. Nhưng cần thấy rằng ngày nay sự phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão, những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ từ thập kỷ 80 đến nay cho phép con người sử dụng tài nguyên chất xám, những thành tựu của trí tuệ từng bước thay thế tài nguyên hiện có. Ví dụ : nghiên cứu thay thế vật liệu composit trong sản xuất máy bay Boing 757,767 giúp giảm 400 kg về trọng lượng; tiết kiệm 2% xăng [380 ngàn lít xăng]. Sử dụng gốm zinkon hoặc cabua silic trong lĩnh vực chất đốt, tiết kiệm 20% giá thành. Nhờ phát triển công nghệ sinh học, năm 1981 Braxin thay thế 20% xăng bằng rượu etylic sản xuất bằng công nghệ lên men từ nguồn nguyên liệu đường mía, bột sắn hoặc lên men mêtan các phế thải làm nhiên liệu v.v... Từ đây xuất hiện một số quan điểm cho rằng nền kinh tế thế giới đang chuyển từ kinh tế "bẩn" [sử dụng tài nguyên] sang kinh tế "sạch" [sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật] ở thế kỷ 21. Do vậy, các lợi thế về tài nguyên của các quốc gia cũng cần được đánh giá đúng mức. ở nước ta cũng như thế giới, tài nguyên từ lòng đất không phải là nguồn ưu thế vĩnh cửu mà đang mất dần lợi thế so sánh.

Đánh giá các nguồn lực còn giúp chúng ta có kế hoạch khai thác và tái tạo hợp lý nhiều nguồn tài nguyên [biển, rừng, khí hậu...] mà hiện nay chúng ta chưa đủ khả năng khai thác để phục vụ phát triển kinh tế, có nghĩa là những nguồn lực sản xuất nguyên nhiên liệu có lợi thế so sánh nhưng chưa được sử dụng hoặc khi đủ điều kiện sử dụng thì lợi thế so sánh mất dần hoặc không còn lợi thế nữa. Vì vậy, cần vận dụng nhập khẩu những nguồn lực không có lợi thế so sánh ở trong nước như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý... để khai thác xuất khẩu những nguồn lực có lợi thế so sánh như đã nêu trên. Có những nguồn lực mà chỉ cần đầu tư trong thời gian ngắn đã mang lại hiệu quả ngay : khai thác rừng biển... là những nguồn lực nằm trong xu hướng đang phát triển hiện nay. Song cũng có những nguồn lực đòi hỏi phải đầu tư lâu dài mới đem lại hiệu quả: tái tạo rừng, nuôi trồng thuỷ hải sản, khai thác năng lượng thiên nhiên... là những lĩnh vực cần có quan niệm mới trong việc đầu tư nuôi dưỡng tạo nguồn lực để sử dụng lâu dài.

Tiềm năng du lịch là một nguồn tài nguyên đặc biệt của quốc gia. Xét về góc độ ngành sản xuất, du lịch và dịch vụ du lịch là ngành công nghiệp không khói. Đây là ngành tổng hợp nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội, lịch sử, kinh tế, văn hoá, môi trường... mà việc khai thác nguồn tài nguyên này trong thời kỳ đất nước mở cửa sẽ mang lại nhiều nguồn lợi lớn lao cho phát triển kinh tế. Nước ta có tài nguyên du lịch phong phú, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử không những có tính quốc gia mà còn mang tầm cỡ quốc tế. Trong thực tế chúng ta chưa khai thác được bao nhiêu. Chẳng hạn năm 1994, tổ chức được hơn 1 triệu lượt khách quốc tế du lịch, doanh thu trên 200 triệu USD, bình quân so với các nước trong khu vực chỉ bằng 1/4 về số lượng khách và 1/18 về doanh thu [1]. Có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản là do chúng ta chưa đánh giá đúng mức tài nguyên du lịch, coi chúng thuần tuý là di tích của tự nhiên và lịch sử mà chưa đặt trong quan hệ kinh tế, văn hoá... chỉ xem tài nguyên du lịch phục vụ con người dưới dạng cổ sơ nguyên thuỷ, chưa đầu tư tôn tạo, chưa khai thác với tư cách là ngành kinh tế. Vì thế cần có quan điểm đúng đắn về tiềm năng du lịch, xây dựng những ngành kinh tế để hoạt động dịch vụ du lịch [phục vụ người du lịch] đào tạo đội ngũ biết làm kinh tế từ văn hoá du lịch, kết hợp nhiều ngành cùng với chính quyền ban hành những chính sách, giải pháp để gìn giữ môi trường : chính trị, kinh tế, y tế... tạo nên sức mạnh tổng hợp cho phát triển tiềm năng du lịch sau này.

+ Vị trí địa lý : Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi, có chiều dài tiếp giáp với biển Đông, là bao lơn nhìn ra Thái Bình Dương, có tuyến đường giao thông hàng hải, hàng không từ Đông sang Tây với những vịnh, cảng quan trọng. Đường bộ, đường sông đã nối 3 nước Đông Dương thành thế chiến lược kinh tế, quân sự thuận lợi. Điều này tạo khả năng cho Việt Nam phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau trong hoạt động dịch vụ. Nhất là nước ta lại nằm trong khu vực phát triển kinh tế với tốc độ tăng GDP từ 7-9%/năm trong vài ba thập kỷ trở lại đây. Tuy nhiên trong thực tế chúng ta chưa khai thác lợi thế về vị trí thuận lợi của đất nước được bao nhiêu. Một trong những nguyên nhân là vấn đề đánh giá lợi thế này. Vị trí địa lý của một đất nước có thuận lợi hay không chưa phải là yếu tố quyết định để đất nước đó phát triển. Nhưng nó là điều kiện tiền đề quan trọng, đặc biệt là khi đất nước mở cửa giao lưu với bên ngoài. Tiền đề này giải quyết những nghịch lý ở những đất nước đang phát triển là: đất nước còn khó khăn, chi phí vận chuyển lớn, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giảm được chi phí vận chuyển; khai thác hoạt động dịch vụ giải quyết được hàng triệu công ăn việc làm, thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng nhanh, kích thích đầu tư mở rộng sản xuất. Một trong những nguyên nhân để những quốc gia, đảo và bán đảo trong khu vực [Singapore, Malaisia, Hồng Kông...] đạt được mức tăng trưởng cao, là biết khai thác vị trí địa lý thuận lợi của mình.

Từ việc đánh giá các nguồn lực trên đây cho chúng ta một cách nhìn tổng quát :

1. Những lợi thế so sánh về nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi mà Porter xếp vào loại lợi thế tĩnh, lợi thế cấp thấp, thực chất đây là lợi thế về chi phí sản xuất. Trong giao lưu kinh tế các nước thì các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, lao động... có lợi thế là chi phí sản xuất thấp, hàng hoá xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Đồng thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài trực tiếp đầu tư [FDI] để sử dụng các nguồn lực đó. Song các lợi thế này không tồn tại lâu dài do sự hạn chế của tài nguyên, lao động và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Do vậy, lợi thế này khó cạnh tranh nổi với những nước có lợi thế cấp cao [vốn, lao động, trình độ khoa học kỹ thuật cao...] trong khu vực.

2. Trong các lý thuyết về lợi thế so sánh mới chỉ đề cập đến những nguồn lực cụ thể như: vốn, hao phí lao động, nguyên vật liệu... tức là những nguồn lực cụ thể có hình hài, cân đong đo đếm được, tính được hệ số so sánh mà ta gọi đó là nguồn lực hữu hình. Bên cạnh đó còn có nguồn lực vô hình, khó đo đếm [vị trí địa lý, tiềm năng du lịch, nguồn nhân lực trí tuệ] cần được đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng để có biện pháp khai thác.

3. Các nguồn lực hữu hình có thể dự đoán được kết quả nhưng nguồn lực vô hình thì khó dự đoán cụ thể. Bởi vì sức mạnh nguồn lực vô hình có thể tăng nhanh và hiệu quả kinh tế lớn khi khai thác, đôi khi có thể tăng đột biến. Vấn đề đặt ra là cần đầu tư đặc biệt cho nguồn nhân lực, khai thác triệt để yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý của đất nước.

4. Yếu tố vô hình và hữu hình đan xen lẫn nhau, không có yếu tố hữu hình hay vô hình thuần tuý. Chẳng hạn tài nguyên thiên nhiên nhiều nhưng lại phụ thuộc điều kiện khai thác thế nào, hay nguồn nhân lực cũng có con số nhất định. Vì thế khi đánh giá yếu tố hữu hình phải chú ý yếu tố vô hình hoặc ngược lại.

5. Thực tế con người không tạo ra yếu tố hữu hình nhưng có thể tạo ra yếu tố vô hình như : tạo môi trường du lịch, bồi dưỡng văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ cho nguồn nhân lực...

Tóm lại, các nguồn lực có lợi thế so sánh để phát triển kinh tế đối ngoại trên đây không phải là những giá trị cố định, nó có thể mất đi tính lợi thế hoặc có lợi thế so sánh nhưng không tạo ra sức mạnh. Tất cả tuỳ thuộc vào nhận thức và cách đánh giá của chúng ta. Mỗi nguồn lực có tầm quan trọng và vị trí riêng của nó. Song nguồn nhân lực, nhân lực có trí tuệ có tầm quan trọng bao trùm lên tất cả. Nâng cao yếu tố vô hình đó mới thực sự tạo điều kiện đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho việc biết tìm hiểu vận dụng, tái tạo, bồi bổ để khai thác các nguồn lực có lợi thế của đất nước.

Chú thích :

[1] Singapo 1993 có 6,4 triệu lượt khách và doanh thu 5,7 tỷ USD;

- Thái Lan 1992 5,1 triệu 4,8 tỷ USD;

- Philippin 1,1 triệu 1,6 tỷ USD;

- Malaisia 1992 5,2 triệu 1,7 tỷ USD;

- Inđônesia 1993 3,4 triệu 3,9 tỷ USD./.

Tweet

Những thuận lợi, khó khăn và những vấn đề đặt ra trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động tích cực hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời gian tới

Ngày phát hành: 14/09/2018 Lượt xem 156257

1. Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế đã đạt được nhất trí cao trong nhận thức và trong triển khai đường lối đổi mới ở nước ta. Về cơ bản, mối quan hệ đó là quan hệ nguyên nhân và kết quả và có tính bổ sung cho nhau, không triệt tiêu lẫn nhau, thể hiện qua một số khía cạnh chính sau:
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là điều kiện tiên quyết cho hội nhập quốc tế hiệu quả. Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ đóng góp cho các mục tiêu độc lập tự chủ về an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Độc lập, tự chủ là cơ sở cơ bản để được cộng đồng quốc tế thừa nhận và bảo đảm cho hội nhập hiệu quả.
Thứ hai, độc lập, tự chủ quyết định bước đi hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa quyết định chủ quan trước xu thế khách quan: trong khi toàn cầu hoá là khách quan, việc các nước quyết định mức độ, phạm vi và lộ trình hội nhập là thuộc yếu tố chủ quan nằm trong chủ quyền của từng nước.
Thứ ba, hội nhập quốc tế có tác động trở lại đối với độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế không làm suy giảm độc lập, tự chủ nhưng làm thay đổi nội hàm và phương cách bảo đảm độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế là quá trình “đánh đổi,” chuyển giao và tiếp nhận. Trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế, các quốc gia chủ động và tự nguyện chuyển nhượng một phần quyền lực của mình cho thể chế hội nhập, cho thị trường. Đổi lại, quốc gia có quyền tham gia vào các quyết định ở tầm cao hơn, rộng hơn, trên quy mô khu vực và toàn cầu. Hội nhập quốc tế mang lại cho quốc gia vị thế mới, công cụ mới để giữ vững độc lập, tự chủ.
Thứ tư, hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ và làm tăng sự lệ thuộc của quốc gia vào các nước khác, đồng thời tác động tới sự phân hoá xã hội của từng nước.
Từ mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế kể trên, có thể cho rằng càng hội nhập sâu rộng thì các phát triển mới trong khu vực và trên thế giới càng trực tiếp ảnh hưởng đến nước ta, từ đó tác động đến khả năng chúng ta độc lập và tự chủ xử lý công tác hội nhập. Các phát triển mới mang đến cả cơ hội và thách thức. Và đây là điều cần thống nhất trong nhận thức và trong hành động.
2. Về cơ hội và thách thức trong thời gian tới
[1] Cơ hội
Hòa bình và hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế. Xu thế phát triển thế giới đa cực, đa trung tâm ngày càng định hình rõ nét. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển của kinh tế thế giới đang có dấu hiệu chuyển dần sang các nước đang phát triển, từ phương Tây sang phía Đông và xuống phía Nam. Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển, lại có quan hệ kinh tế đa dạng với nhiều nước thuộc cả nhóm phát triển và đang phát triển, hoàn toàn có thể tận dụng xu hướng này, tham gia vào các tập hợp lực lượng kinh tế mới để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế vẫn phát triển. Các quốc gia nhỏ và vừa có cơ hội tham gia tích cực hơn vào các vấn đề quan hệ quốc tế, đặc biệt trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức ở khu vực. Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam hiện là thành viên của rất nhiều cơ chế hợp tác đa phương. Mặc dù các cơ chế này có chức năng chồng chéo, tính ràng buộc thấp, hiệu quả hợp tác hạn chế, nhưng chỉ riêng sự tồn tại tiếp tục của chúng cũng đã là một điều kiện thuận lợi cho Việt Nam. Thông qua các thể chế này Việt Nam tiếp tục có phạm vi hoạt động đối ngoại rộng. Cụ thể, tham gia vào các cơ chế đa phương trong khu vực giúp tiếng nói của Việt Nam có trọng lượng hơn; vai trò của chúng ta trong các vấn đề khu vực được nâng cao; lợi ích quốc gia được đảm bảo tốt hơn đặc biệt khi lợi ích đó gắn với lợi ích của khu vực.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trở thành trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng hàng đầu thế giới. Sự chuyển dịch này được thể hiện trên nhiều khía cạnh như các nền kinh tế khu vực ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong GDP toàn cầu, dẫn đầu thế giới về tăng trưởng và liên kết kinh tế; Mỹ và các nước lớn đều điều chỉnh chính sách đối ngoại hướng về châu Á - Thái Bình Dương và coi trọng khu vực. Trong cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng tại đây, các đối tác trong và ngoài khu vực luôn phải tìm tòi, khởi xướng những nội dung hợp tác mới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có thể phát huy vị trí địa chiến lược của một nước Đông Nam Á - nằm ở trung tâm của sự chuyển dịch, qua đó thúc đẩy các dự án hợp tác có lợi cho ta trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đồng thời làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác trong và ngoài khu vực. Đặc biệt, yếu tố Trung Quốc trỗi dậy đã mang lại một số lợi thế mới cho Việt Nam. Đó là sự cận kề về địa lý với Trung Quốc đã tạo cho Việt Nam một số lợi thế về địa chiến lược [quy định bởi cạnh tranh nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung] và địa kinh tế [quy định bởi độ lớn của thị trường Trung Quốc; chiến lược China Plus One].
Đồng thời, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục chứng kiến xu hướng hội nhập và liên kết kinh tế đang được đẩy mạnh ở mọi tầng nấc. Có thể thấy, việc ký kết các hiệp định tự do thương mại [FTA] sẽ tiếp tục là một xu hướng lớn trong quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2030. Xu hướng hội nhập kinh tế thông qua hình thành các FTA thế hệ mới như TPP là phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Một mặt, xu hướng liên kết kinh tế thể hiện mức độ tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước trong khu vực ngày càng gia tăng, và phản ánh nhận thức của các chính phủ về khả năng tiếp tục thúc đẩy hơn nữa các lợi ích kinh tế ví dụ thông qua đàm phán và ký kết các FTAs. Mặt khác, quan trọng hơn đó là xu hướng hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu vực cho thấy quyết tâm tách biệt các quan hệ kinh tế-thương mại với quan hệ chính trị - an ninh của chính phủ các nước. Nói cách khác, các quốc gia trong khu vực cố gắng không để hoặc giảm đến mức tối thiểu tác động từ những vấn đề chính trị - an ninh đối với các quan hệ kinh tế-thương mại. Đây là một nhân tố thuận lợi góp phần duy trì quan hệ ổn định giữa các quốc gia và đóng góp vào việc gìn giữ hòa bình và an ninh trong khu vực. Đặc biệt, xu hướng này phù hợp với lợi ích của Việt Nam khi trọng tâm chiến lược hội nhập toàn diện của Việt Nam vẫn là hội nhập về kinh tế.
[2] Thách thức
a. Môi trường khu vực bất ổn định
Châu Á - Thái Bình Dương đã và sẽ là khu vực có khả năng xảy ra nhiều biến động nhất và những biến động này sẽ tác động mạnh trên phạm vi toàn cầu. Các yếu tố tác động bao gồm: [1] Dân số đông nhất: Dân số khu vực gần 4 tỷ người, gấp 8-10 lần EU, chiếm hơn một nửa dân số thế giới; có 4 trong số những quốc gia đông dân nhất thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Indonesia, [2] Xã hội đa dạng nhất về ý thức hệ, trình độ phát triển,văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử, tư duy, tập hợp gần hết các nền văn minh thế giới; [3] Môi trường chính trị/xã hội đang chuyển động nhanh theo hướng đô thị hóa, dân chủ hóa, trung lưu hóa, cá nhân hóa, kể cả bần cùng hóa - là khung cảnh thuận lợi cho các trào lưu dân tộc cực đoan, dân túy phát triển; [4] Nhiều chế độ chính trị đa dạng nhất và đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp sang dân chủ hóa; [5] Có sự hiện diện của nhiều nước lớn nhất, nổi bật là Mỹ và Trung Quốc; đồng thời [6] Thiếu một cơ chế/trật tự an ninh, kinh tế bao trùm để điều hòa quan hệ giữa các nước trong khu vực, [7] Sự đan xen của các yếu tố đối nội và đối ngoại, các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống, và sự tồn tại lúc âm ỉ, lúc bùng phát của các điểm nóng khu vực [Biển Đông, Hoa Đông, Đài Loan và Bán đảo Triều Tiên...] và các tranh chấp về tài nguyên. Kết quả là quan hệ quốc tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương vận động nhanh và biến động khó lường. Điều chỉnh chính sách và cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ trở thành yếu tố quyết định đến trật tự thế giới trong tương lai.
b. Cạnh tranh quyền lực Mỹ - Trung:
Trung Quốc trỗi dậy trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Mỹ. Hiện nay, Trung Quốc đã hội tụ đủ điều kiện để thay thế Liên Xô/Nga trở thành đối thủ của Mỹ khi kết hợp được cả sức mạnh kinh tế và quân sự, sự khác biệt với Mỹ về hệ giá trị và tổ chức chính trị - xã hội và ý chí vươn lên trở thành nước lớn đang tìm cách thay đổi trật tự hiện hành.
Về kinh tế, quy mô kinh tế của Trung Quốc đã vượt Nhật Bản [năm 2010] và vượt Mỹ [năm 2014], trở thành nền kinh tế lớn thứ nhất thế giới. Trung Quốc đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò “động lực tăng trưởng” quan trọng của kinh tế thế giới. Về quân sự, Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quốc phòng đi đôi với cải cách quân đội với trọng tâm phát triển các hệ thống vũ khí, binh chủng mới [nhất là hải quân], phát triển các học thuyết và chiến lược quân sự, mở rộng quan hệ quân sự với nhiều nước, phấn đấu đến năm 2049 trở thành cường quốc hải quân, hoàn thành mục tiêu trở thành cường quốc thế giới. Về ngoại giao, từ sau chiến tranh Lạnh kết thúc, Trung Quốc tích cực tham gia các cơ chế đa phương khu vực và quốc tế, đồng thúc đẩy thiết lập các cơ chế và tập hợp lực lượng mới [CICA, SCO, AIIB, OBOR, diễn đàn Bác Ngao, Hương Sơn…], thông qua đó gia tăng đáng kể năng lực tiếp cận và vận động cộng đồng quốc tế [châu Phi, Trung Á, Đông Nam Á, thậm chí cả châu Âu]. Từ sau Đại hội XVI của Đảng, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường chủ động về đối ngoại, từ bỏ “giấu mình chờ thời”, triển khai quyết liệt “ngoại giao nước lớn” và “ngoại giao láng giềng” nhằm gia tăng ảnh hưởng ở châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.
Tuy phải đối mặt với nhiều thách thức về kinh tế, chính trị và xã hội, nhưng Trung Quốc có khả năng tự điều chỉnh để không đi đến đổ vỡ. Mặt khác, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong khi sức mạnh tổng thể quốc gia chưa bằng Mỹ, nhưng Trung Quốc có một số lợi thế riêng: [1] tinh thần dân tộc mạnh mẽ và khả năng khai thác “sức mạnh mềm” này, [2] khả năng huy động và tập hợp nguồn lực cao hơn, [3] lợi thế về địa lý khi nằm ở trung tâm khu vực. Tóm lại, với sức mạnh và quyết tâm mới, Trung Quốc đang cố gắng thay đổi trật tự khu vực, theo đó Mỹ phải rút khỏi khu vực hoặc chấp nhận một “công thức sống chung” mới với vai trò lớn hơn của Trung Quốc.
Cạnh tranh Mỹ - Trung đang tăng lên. Mỹ tìm cách đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc nhằm duy trì vị trí dẫn dắt trật tự thế giới và khu vực. Sự điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ đã tạo ra những chuyển động mới trong tình hình khu vực liên quan đến chuỗi “hành động - phản ứng” trong quan hệ Mỹ - Trung và quá trình tập hợp lực lượng mới trong khu vực.
Một trong những biện pháp quan trọng của Mỹ nhằm kiềm chế Trung Quốc là chiến lược xoay trục/Tái cân bằng dưới thời chính quyền Obama. Chiến lược này được triển khai trên 4 lĩnh vực chính gồm: an ninh/quân sự, kinh tế/thương mại, ngoại giao, và phổ biến giá trị. Với phương châm “nước Mỹ là số 1” và đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại,” chính quyền của Tổng thống Donald Trump tiếp tục theo đuổi mục tiêu củng cố và tăng cường vị thế siêu cường vượt trội của Mỹ. Các mục tiêu lớn về cơ bản vẫn không thay đổi. Nhưng Trump đang áp dụng một số biện pháp và bước đi khác trước. Đó là ưu tiên song phương, giảm can dự vào các thể chế đa phương về kinh tế [rút khỏi TPP, ủng hộ bảo hộ mậu dịch] và ngoại giao [chưa có tuyên bố công khai ủng hộ các cơ chế khu vực như EAS, ARF hoặc APEC]; ưu tiên cách tiếp cận “hòa bình dựa trên sức mạnh” [thông qua tăng chi phí quân sự, tăng sự hiện diện quân sự ở khu vực, kể cả “quân sự hóa” bộ máy hoạch định chính sách an ninh]. Dự báo là trong thời gian tới, mâu thuẫn kinh tế, Bắc Triều Tiên, Biển Đông sẽ là 3 lĩnh vực Trump tập trung xử lý trong quan hệ với Trung Quốc.
Vị thế nước lớn của Mỹ và Trung Quốc, sự thay đổi trong so sánh sức mạnh tổng hợp giữa hai nước và các điều chỉnh chiến lược ứng của hai nước ứng phó với sự thay đổi đó đã đưa quan hệ Mỹ - Trung trở thành mối quan hệ quan trọng nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Diễn biễn trong trục quan hệ Mỹ - Trung theo hướng đối kháng nhiều hơn sẽ tiếp tục chi phối đến các mặt trong quan hệ quốc tế của khu vực.
Trong môi trường an ninh bất định của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trước những phát triển mới trong quan hệ Mỹ - Trung và tác động của tình trạng hội nhập/lệ thuộc lẫn nhau/đan xen lợi ích về kinh tế, các nước khác trong khu vực cũng tích cực điều chỉnh chính sách đối ngoại dựa trên cơ sở tiềm lực quốc gia mới và ý chí chấn hưng dân tộc cao hơn. Các nước lớn như Nga, Nhật Bản, Ấn Độ can dự nhiều hơn vào khu vực để tăng cường ảnh hưởng và hiện diện. Các quốc gia vừa và nhỏ trong khu vực áp dụng chính sách linh hoạt và thực dụng hơn trong quan hệ với các nước lớn, vừa lợi dụng vừa ‘phòng ngừa’ các cơ hội và thách thức của vận động trong quan hệ Mỹ-Trung. Xu hướng chung là vừa hợp tác với Trung Quốc vì lợi ích kinh tế, vừa tranh thủ Mỹ về mặt an ninh/quốc phòng, đồng thời dựa vào các cơ chế khu vực để tăng cường các biện pháp quản lý khủng hoảng, xây dựng lòng tin, hợp tác chống các thách thức an ninh phi truyền thống...
c. Một số thách thức khác:
- Kinh tế thế giới chưa phục hồi mạnh mẽ. Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính năm 2008, kinh tế thế giới đã phục hồi nhưng vẫn phát triển chậm và chưa vững chắc. Điều này thể hiện qua [1] mức độ tăng trưởng thấp: mức tăng trưởng năm 2016 chỉ đạt khoảng 3%, là mức thấp nhất kể từ năm 2008-2009; các nền kinh tế lớn đều bị kẹt trong “bẫy tăng trưởng thấp” [2] đầu tư và thương mại vẫn nằm trong xu hướng giảm: FDI toàn cầu giảm 5% năm 2016; thương mại toàn cầu năm 2016 chỉ tăng 1,7%, mức thấp nhất kể từ năm 2008 – 2009; [3] liên kết kinh tế toàn cầu và khu vực có xu hướng chậm lại và tăng mạnh với làn sóng dân túy: đàm phán Doha của WTO, đàm phán RCEP/TTIP tiếp tục bế tắc hoặc chưa có đột phá; Anh rút khỏi EU, Mỹ rút khỏi TPP; [4] giá hàng hóa cơ bản [nông sản, dầu lửa, vàng, ngoại tệ] phục hồi chậm và không ổn định.
- Lợi dụng sự bất mãn và tâm lý thất vọng của người dân trước những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa/tự do hóa kinh tế và khủng hoảng kinh tế, trào lưu dân túy đã giành thắng lợi trong bầu cử để lên nắm quyền, từ đó đưa đến những thay đổi lớn trong chính sách hội nhập quốc tế và hợp tác kinh tế quốc tế. Một trong những nội dung chính của dân túy là lập trường “chống toàn cầu hóa,” “chống hội nhập,” “chống nhập cư”; chống “chủ nghĩa tư bản tự do.” Biểu hiện chính sách là quay vào bên trong [rút cam kết/giảm nghĩa vụ quốc tế và giảm ủng hộ đối với các cơ chế đa phương về chính trị và kinh tế - là những nền tảng luật lệ tạo ra trật tự quốc tế và theo đó là sự ổn định trong quan hệ quốc tế.
Dân túy đã thắng thế ở nhiều nước lớn. Châu Âu có Anh [đã giành được chính quyền]; đang tranh giành chính quyền ở Pháp, Đức và một số nước khác. Châu Mỹ có Hoa kỳ. Khu vực Đông Á có Nga, Nhật bản, Trung Quốc, Ấn độ; một số nước ASEAN như Indonesia, Thái lan, Philippines, và Cambodia. Xu hướng chính sách hiện nay là [1] các nước, nhất là các nước lớn quay về bên trong, phục vụ lợi ích vị kỷ của mình một cách cực đoan hơn, từ đó tạo ra hệ quả là [2] giảm cam kết với các cơ chế đa phương như TPP và ASEAN, coi trọng các cơ chế song phương hơn, [3] tăng cường các biện pháp bảo hộ mậu dịch, và [4] tăng cường cạnh tranh quyền lực phục vụ các mục tiêu lợi ích quốc gia vị kỷ, nhất là đẩy mạnh cạnh tranh vùng ảnh hưởng, tranh chấp lãnh thổ và nguồn tài nguyên. Hệ quả là xu thế toàn cầu hóa, dân chủ hóa, hợp tác cùng phát triển đang có bị chững lại, không thuận cho các chính sách thúc đẩy hội nhập quốc tế.
d. Các thách thức trực tiếp đối với Việt Nam
- Cạnh tranh nước lớn gia tăng: Các nước lớn ở khu vực như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ với quốc lực được cải thiện đều đề cao tinh thần nước lớn củng cố và mở rộng khu vực vùng ảnh hưởng của mình, từ đó làm cho cạnh tranh nước lớn trong khu vực tăng lên. Xu hướng gia tăng cạnh tranh quyền lực và ảnh hưởng giữa các nước lớn, kèm theo đó là sự tập hợp lực lượng xoay quanh trục quan hệ Mỹ - Trung sẽ đặt Việt Nam vào “thế kẹt,” theo đó [1] chính trị cường quyền sẽ phát triển ở mức mới, đấu tranh và hợp tác nước lớn gây tác động trực tiếp đến nước ta [nhất là khả năng nước lớn mặc cả trên lưng nước ta], từ đó làm cho [2] sức ép phải lựa chọn bên sẽ nhiều hơn, cả về thời điểm và lĩnh vực, [3] nhu cầu duy trì thống nhất và đồng thuận nội bộ trong việc nhìn nhận các đối tượng/đối tác của ta cũng lớn hơn.
- Nguy cơ lệ thuộc vào Trung Quốc gia tăng: Sức ép trực tiếp từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, đưa nước ta vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc về địa chiến lược, tăng sự lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc cũng như chịu sức ép lớn hơn từ việc Trung Quốc tăng cường phát huy sức mạnh mềm trong khu vực.
- Vai trò ASEAN có nguy cơ suy giảm: Dưới tác động của xu hướng dân túy, bảo hộ, nhiều nước ASEAN một mặt ủng hộ thương mại tự do và hội nhập kinh tế quốc tế nhưng có chủ trương quay về bên trong mạnh hơn, giảm cam kết với các cơ chế đa phương khu vực, từ đó góp phần làm suy giảm vai trò của ASEAN. Kết hợp với sự cạnh tranh ảnh hưởng và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn đang tăng lên, việc giữ vững đoàn kết và đồng thuận nội bộ và vai trò trung tâm của ASEAN cũng sẽ khó khăn hơn, theo đó [1] thành viên ASEAN tiếp tục bị các nước lớn phân hóa, [2] tổ chức ASEAN tiếp tục bị giảm vai trò và tính hiệu quả khi các nước lớn tăng cường đấu tranh và hợp tác trực tiếp với nhau và giảm cam kết vào các tiến trình đa phương, coi nhẹ vai trò của ASEAN trên tư cách là chủ thể “dẫn dắt” các tiến trình đa phương về chính trị và an ninh khu vực.
- Sản xuất, thương mại, đầu tư có khả năng bị ảnh hưởng; cải cách thể chế kinh tế và hội nhập quốc tế có nguy cơ chậm lại: Đối với kinh tế trong nước, các ngành hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giầy, nông-thủy sản có thể bị tác động nhiều nhất, bởi đây là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn sang Mỹ và châu Âu [chiếm 40% thị phần], dễ bị áp đặt các biện pháp bảo hộ, rào cản kỹ thuật. Về đầu tư, xu hướng di chuyển sản xuất về nước của các tập đoàn hàng đầu, nhất là Mỹ, có thể hạn chế việc mở rộng đầu tư ở Việt Nam, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn, công nghệ của các tập đoàn hàng đầu. Trong khi đó, trì trệ trong một số liên kết kinh tế khu vực quan trọng như hiệp định TPP có thể khiến Việt Nam lỡ cơ hội mở rộng thị trường và tiếp cận công nghệ do giá trị của nền kinh tế Việt Nam gắn với TPP đã bị giảm đi.
3. Các vấn đề đặt ra trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế
Hội nhập theo luật chơi của ai?
Như đã nêu trên, cạnh tranh chiến lược đang tăng lên giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chủ yếu liên quan đến xây dựng luật chơi. Về kinh tế, Trung Quốc tiếp tục nỗ lực định hình và dẫn dắt luật chơi thông qua các sáng kiến OBOR, RCEP, AIIB, gắn sự thịnh vượng kinh tế của các nước khu vực với sự phát triển của Trung Quốc. Trung Quốc đã ngày càng tăng cường vị trí và vai trò của mình trong các vấn đề thương mại, tài chính/tiền tệ, cơ sở hạ tầng. Trung Quốc đã có thể dùng sức mạnh kinh tế để làm công cụ phục vụ chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường hiện diện và ảnh hưởng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, “thưởng” cho các nước đáp ứng lợi ích chiến lược của Trung Quốc và “phạt” những nước ảnh hưởng đến lợi ích chiến lược của Trung Quốc.
Trong khi đó, Mỹ đã coi Trung Quốc là đối thủ kinh tế và do đó đang tìm cách xây dựng các tập hợp lực lượng về kinh tế để lôi kéo các nước khác. Nhưng việc xây dựng chính sách kinh tế của Mỹ dưới thời tổng thống Trump hiện đang trải qua quá trình đánh giá lại. Về đại thể, chính sách kinh tế sẽ phụ thuộc vào cuộc đấu về mặt chính trị giữa phái duy lý kinh tế [economic rationalism] và phái dân tộc chủ nghĩa [economic nationalism]. Hiện nay Trump đang nghiêng về phái dân tộc chủ nghĩa. Theo đó một số biện pháp cứng rắn đã được Mỹ tính đến theo hướng đàm phán lại các hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương để bảo vệ quyền lợi của Mỹ bằng các biện pháp “công bằng hơn.” Giới bình luận cho rằng đây không phải là điều xấu, nhưng chưa mang tầm chiến lược, theo đó việc rút khỏi TPP và đề xuất đàm phán lại các hiệp định thương mại song phương và đa phương khác không gắn với chính sách thương mại tự do chung, và không gắn với chiến lược tổng thể đối phó với Trung Quốc. Ngoài ra, việc Trump chuyển sang theo đuổi hiệp định thương mại song phương đã làm giảm chất chiến lược của chính sách thương mại, do đa phương mới có giá trị đối với việc xây dựng luật chơi và củng cố trật tự hiện hành.
Về an ninh/quân sự, bên cạnh việc củng cố hệ thống đồng minh truyền thống và mở rộng quan hệ đồng minh/đối tác ba bên, bốn bên, Mỹ nêu ý tưởng xây dựng “mạng lưới an ninh dựa trên nguyên tắc” để tập hợp các nước “cùng ý chí” ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc đề xuất “quan điểm an ninh châu Á mới” và tiếp tục thúc đẩy xây dựng các mô hình hợp tác an ninh như SCO, CICA, Diễn đàn Bác Ngao để tạo tập hợp lực lượng có lợi cho mình. Cạnh tranh Mỹ - Trung đang được mở rộng sang các lĩnh vực vốn là ưu thế của Mỹ như: phát triển vũ khí chiến lược, hải quân, không gian, chiến tranh mạng, Nam/Bắc cực.
Về ngoại giao, đã hình thành các tập hợp lực lượng theo các vấn đề an ninh truyền thống [tranh chấp lãnh thổ, vấn đề Triều Tiên], an ninh phi truyền thống [an ninh nguồn nước, khủng bố quốc tế, thậm chí cứu trợ nhân đạo] mang dấu hiệu cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ tại các cơ chế khu vực, nhất là APEC, EAS, và ARF. Các diễn đàn do ASEAN làm nòng cốt đang có xu hướng kém hiệu quả [dưới tác động của cạnh tranh nước lớn và những hạn chế của ASEAN].
Đáng chú ý, Trung Quốc đang tích cực tận dụng xu hướng quay vào bên trong ở Mỹ để tăng cường ảnh hưởng trong khu vực. Zakaria đã nhận định rằng sự chập chững trong chính sách của Mỹ đã tạo điều kiện cho Trung Quốc lấp chỗ trống, tăng cường vai trò dẫn dắt khu vực. Trong cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung, vấn đề đặt ra cho các nước khác là nguyên lý độc lập tự chủ được ứng dụng như thế nào trong sự lựa ủng hộ/đi theo mô hình hội nhập nào? Điều đó có nghĩa là phải theo luật chơi nào trong hội nhập thời gian tới?
Hội nhập theo bản sắc nào?
Một trong những nhận thức chung đã đạt được về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế liên quan đến bản sắc quốc gia. Theo đó, độc lập dân tộc còn là “chiếc neo về bản sắc,” hiểu theo nghĩa là càng hội nhập sâu rộng càng cần khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ giá trị văn hoá, truyền thống dân tộc trong một hoàn cảnh quan hệ đối ngoại của nước ta đã trở nên quốc tế hoá cao. “Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc” do đó tiếp tục là một yêu cầu quan trọng của quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, điều này liên quan nhiều hơn đến bản sắc dân tộc, và việc tìm và giữ bản sắc dân tộc vẫn là một quá trình.
Ngoài ra, còn có yêu cầu về bản sắc quốc gia, hiểu theo nghĩa là một nước xây dựng cho mình hình ảnh/vị thế gì trong tương tác với nước khác. Bản sắc quốc gia liên quan đến [1] việc xác định chỗ đứng cho Việt Nam trong các mối liên kết quốc tế. Cụ thể nhất là tham gia các cơ chế/tổ chức nào, tham gia tập hợp lực lượng nào để từ đó khẳng định mình qua việc tuân thủ và “chủ động tích cực xây dựng” luật chơi với tư quy chế thành viên, và cao hơn nữa [2] việc tham gia vào các cơ chế đó thỏa mãn lợi ích quốc gia dân tộc nào, cả trước mắt và lâu dài? Từ đó đặt ra vấn đề là trong thời gian tới và trong bối cảnh thế giới/khu vực kể trên, chúng ta nên đầu tư vào bản sắc cũ và mới nào cho để đảm bảo hội nhập hiệu quả? Các hình ảnh/vị thế liên quan đến bản sắc như “là bạn, là đối tác tin cậy,” của các nước, “là thành viên tích cực và có trách nhiệm” trong ASEAN và Liên hợp quốc, hoặc là đối tác chiến lược/đối tác toàn diện của một số nước, và “bạn bè truyền thống” của một số nước khác có cần ưu tiên không? Hoặc một số bản sắc nào khác cần xây dựng và phát huy mạnh hơn - trước mắt là từ sự lựa chọn tham gia [hoặc lập ra] các tổ chức/cơ chế mới [ví dụ ASEAN 4, ASEAN - X trong vấn đề biển Đông], hoặc tham gia xây dựng luật chơi mới cho các cơ chế hiện hành.
Tùy thuộc lẫn nhau hay lệ thuộc kinh tế lớn hơn?
Trong tiến trình hội nhập kinh tế, việc giữ độc lập tự chủ hoặc tạo ra tình trạng đan xen lợi ích và tùy thuộc lẫn nhau [interdependence] sẽ tạo ra những cách thức hiệu quả để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế, cả tình trạng độc lập tự chủ và tùy thuộc lẫn nhau đều sẽ gặp phải thách thức ngày càng lớn khi sự lệ thuộc về kinh tế dường như tăng lên. Hai khía cạnh chính của sự lệ thuộc là:
- Lệ thuộc hơn vào nền kinh tế Trung Quốc: độ lớn và trình độ phát triển kinh tế Trung Quốc đã và đang đưa đến thực tế là Việt Nam chịu thâm hụt thương mại với Trung Quốc, trở thành nước nhận FDI của Trung Quốc ngày càng nhiều.
- Lệ thuộc hơn vào trật tự quan hệ quốc tế hiện hành: theo thuyết dependency, rất nhiều nước khó thoát khỏi sự phân công lao động quốc tế tư bản chủ nghĩa, theo đó Việt Nam luôn nằm ở khu vực ngoại vi và ở vào thứ hạng thấp trong nấc thang giá trị. Đây chính là lý do có tính cấu trúc của hiện tượng “bẫy thu nhập trung bình” và hiện tượng “chạy đua tới đáy” [race to the bottom] theo đó các nước chậm phát triển thậm chí ganh đua nhau để giành đầu tư/thương mại với các nước phát triển với kết cục càng hội nhập càng nghèo.
Các lợi thế so sánh mới của Việt Nam là gì?
- Liên quan đến việc giảm lệ thuộc, tăng tùy thuộc là nhiệm vụ tạo dựng được một danh sách mới các lợi thế so sánh của Việt Nam trong bối cảnh mới, nhất là khi các lợi thế so sánh hiện nay hoặc chưa phát huy tác dụng, hoặc mất dần giá trị.
- Đây là vấn đề có tầm dài hạn [cơ cấu, mô hình phát triển] và ngắn hạn. Đồng thời là những vấn đề sẽ phải được quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới, trước hết từ góc độ lý luận để chúng ta có thể xử lý mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập tích cực một cách hiệu quả nhất, thích ứng ở mức cao nhất trước sự vận động nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực./.


PGS.TS Nguyễn Vũ Tùng

Giám đốc Học viện Ngoại giao

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề