So sánh nguồn gốc ra đời, bản chất và chức năng của nhà nước phương đông và phương tây

1. Khái quát về nhà nước phong kiến:

Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến [phong tước, kiến địa] là một từ gốc Hán-Việt: xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Đặc điểm chung của chế độ phong kiến là giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất [gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước] và tiến hành bóc lột địa tô [dưới nhiều hình thức như tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp] đối với nông dân không có hay có ít ruộng đất [dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau]. Xã hội phân hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau. Hệ thống chính trị có thể là phân quyền cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân, những giai đoạn cuối, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh dẫn đến sự ra đời của kết cấu kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa.

2. So sánh nhà nước phong kiến Phương Đông và phương Tây:

Để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt cũng như có những đánh giá đúng đắn hơn về nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong kiến phương Tây, có thể so sánh dựa trên các tiêu chí: Thời điểm ra đời, hình thức nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, bản chất và chức năng nhà nước.

2.1. Sự giống nhau:

v Thời điểm ra đời [Quá trình hình thành, phát triển và suy vong]: Sự hình thành chế độ phong kiến cũng như nhà nước phong kiến chính là quá trình phong kiến hóa, đó là cả một quá trình, diễn ra trong thời gian dài và có hai con đường: Một là, hình thành từ nền tảng là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Hai là, có những nước từ chế độ công xã nguyên thủy đang tan rã, bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên chế độ phong kiến và thiết lập nhà nước phong kiến. Sự suy vong của hai nhà nước phong kiến phương Đông và phương Đông và phương Tây cũng đều cùng xuất phát từ mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với quý tộc phong kiến.

v Cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng: Về cơ sở kinh tế: nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều có nền kinh tế nông nghiệp, bên cạnh là kinh tế thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ, kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp. Quan hệ sản xuất chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất [chủ yếu là ruộng đất] và sản phẩm lao động. Xã hội hình thành hai giai cấp cơ bản: nông dân [ở phương Tây gọi là nông nô] và địa chủ phong kiến [ở phương Tây thường gọi là lãnh chúa, hoặc chúa đất]. Bóc lột địa tô là phương thức bóc lột đặc trưng và phổ biến; đặc điểm tiêu biểu của nhà nước phong kiến là phân chia đẳng cấp. Về chính trị,tư tưởng: chế độ phong kiến phân quyền được hình thành và đi từ phân quyền đến tập quyền. Cả hai nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều lấy tôn giáo làm cơ sở lí luận cho sự thống trị của mình [Trung Quốc là Khổng giáo hay Nho giáo, Ấn Độ là Hồi giáo, châu Âu là Thiên Chúa giáo].

v Về hình thức nhà nước: Hình thức chính thể phổ biến của nhà nước phong kiến là quân chủ, trải qua hai giai đoạn – phân quyền cát cứ và trung ương tập quyền. Từ góc độ hình thức cấu trúc nhà nước thì hầu hết các nhà nước phong kiến đều là những nhà nước đơn nhất. Về chế độ chính trị, các nhà nước phong kiến, kể cả phương Đông và phương Tây đều sử dụng các phương pháp cai trị độc đoán, chuyên quyền để thực thi quyền lực của giai cấp địa chủ phong kiến, bắt nông dân và những người lao động khác phải phục tùng tuyệt đối quyền lực đó.

v Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước: So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước phong kiến phát triển hơn về cách thức tổ chức, phương thức hoạt động, phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước đứng đầu là vua, giúp vua là quan. Vua, quan là những giai cấp thống trị nhân dân.

v Về bản chất và chức năng nhà nước: Xét về mặt bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân và những người lao động khác nhằm duy trì, củng cố địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Về chức năng nhà nước, cả nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều thực hiện 2 chức năng chính là chức năng đối nội [bảo vệ, củng cố và phát triển chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất, duy trì chế độ bóc lột, đàn áp nông dân và các tầng lớp khác] và chức năng đối ngoại [phòng thủ chống xâm lược từ bên ngoài, gây chiến tranh xâm lược các nước khác, hoạt động đối ngoại hữu hảo ở từng thời điểm với các quốc gia khác,…]

Xem thêm: Nhà nước tư sản và nhà nước phong kiến

2.2. Sự khác nhau:

v Thời điểm ra đời [các quá trình hình thành, phát triển, suy vong]:

Ở phương Đông nhà nước phong kiến xuất hiện sớm hơn ở phương Tây, do nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, đoàn kết chống ngoại xâm; và hình thành sớm nhất ở Trung Quốc, từ thế kỷ III trước công nguyên. Tuy nhiên, quá trình phát triển lại rất chậm [Trung Quốc thế kỷ VII – XVI], các nước Đông Nam Á [thế kỷ X – XIV]. Quá trình suy vong dài, bởi có sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân nên mâu thuẫn dân tộc, giai cấp đã làm chế độ phong kiến suy yếu, khủng hoảng. Nhân dân phương Đông phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống thực dân, lật đổ phong kiến. Ở phương Tây, chế độ phong kiến xuất hiện muộn hơn [thế kỷ V – X], nó được hình thành sớm nhất đã là thế kỷ V sau công nguyên [ở Tây Âu]. Nó phát triển rất nhanh [Thế kỷ XI – XIV] và thời gian suy vong ngắn [Thế kỷ XV – XVI]. Ở phương Tây, nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất điển hình. Sự hình thành quan hệ phong kiến trong lòng đế quốc LaMã là yếu tố cơ bản, quyết định, công cuộc chinh phục các bộ lạc của người Giécmanh là yếu tố thúc đẩy quá trình phong kiến hóa. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng.

v Về cơ sở kinh tế – chính trị – xã hội – tư tưởng:

Cơ sở kinh tế: Ở phương Tây [Tây Âu], chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời cổ đại. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến ở đây là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa – chư hầu, tình trạng phân quyền cát cứ kéo dài. Ở trung kì [thời kì phát triển], thủ công, thương nghiệp phát triển, dẫn tới sự xuất hiện thành thị trung đại. Khác với phương Tây, kinh tế phương Đông lại bó hẹp ở công xã nông thôn. Kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ – tá điền chiếm ưu thế, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần ruộng đất được phân phong cho quý tộc, quan lại, một phần được cấp cho nông dân theo định kỳ để nhà nước thu thuế, như chế độ quân điền ở Trung Quốc, chế độ ban điền ở Nhật Bản,..[sở hữu tư nhân phát triển chậm]. Về cơ sở xã hội: Giai cấp thống trị phương Đông là địa chủ, quý tộc, còn ở phương Tây thế lực thống trị gồm lãnh chúa, quý tộc, tăng lữ. Giai cấp bị trị: Nông dân tá điền [phương Đông] so với nông nô [phương Tây] có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chế độ phong kiến phương tây nặng nề và gay gắt hơn phương Đông. Về chính trị, tư tưởng: Chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn ở phương Tây. Sự chuyển biến từ chế độ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông [thời Tần Thủy Hoàng] và A-sô-ka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương Tây sự tập quyền diễn ra chậm trễ [thế kỉ XIV] và nhà vua được sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được sự cát cứ của các lãnh chúa. Sự can thiệp của tầng lớp tăng lữ phương Tây vào hệ thống chính trị là rõ ràng và chặt chẽ hơn phương Đông.

v Về hình thức nhà nước:

Ở phương Tây, một đặc trưng, phổ biến và bao trùm của nhà nước là trạng thái phân quyền cát cứ. Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối – thời kì suy vong của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban Nha,…Còn ở một số nước như Italia, Đức,…trạng thái phân quyền cát cứ tồn tại suốt cả chế độ phong kiến. Tính chuyên chế ở chính thể quân chủ chuyên chế không cao như ở phương Đông. Ngoài ra, còn có hình thức chính quyền tự trị thành phố là chính quyền cục bộ, tồn tại trong những khoảng thời gian không lâu. Bên cạnh đó còn có sự ra đời và tồn tại của các cơ quan đại diện đẳng cấp…Ở phương Đông, hình thức kết cấu của nhà nước phổ biến là trung ương tập quyền, phát triển thành hình thức chính thể quân chủ chuyên chế, mang tính chuyên chế cực đoan. Trong chính thể này, vua có uy quyền tuyệt đối, là đấng chí cao vô thượng và được thần thánh hóa là “thiên tử”, “thiên hoàng”…Dạng chính thể này tồn tại trong suốt thời kì phong kiến.

v Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước:

Bộ máy nhà nước phong kiến phương Đông thể hiện tính trung ương tập quyền cao độ, Vua hay Hoàng đế là người nắm hết mọi quyền lực, quan lại các cấp đều là tôi tớ của vua, dân chúng trong nước đều là thần dân của vua. Hệ thống quan lại được tổ chức 2 cấp, trung ương và địa phương với đẳng cấp phân minh, biên chế chặt chẽ. Điển hình cho nhà nước phong kiến phương Đông là nhà nước phong kiến Trung Quốc. Ở phương Tây, mà điển hình là Tây Âu, trong giai đoạn phân quyền cát cứ, bộ máy nhà nước ở trung ương vẫn tồn tại nhưng kém hiệu lực. Bộ máy nhà nước ở các lãnh địa rất mạnh, gồm nhiều cơ quan quản lý nhưng chủ yếu là cơ quan cưỡng chế. Trên thực tế, các lãnh địa như những quốc gia nhỏ, các lãnh chúa trở thành vua trên lãnh địa của mình, có đầy đủ quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, có bộ máy chính quyền, tòa án, quân đội, luật lệ riêng. Ở chính quyền tự trị thành phố, thành thị sau khi đã được tự trị, một mặt có đầy đủ quyền hành như một lãnh chúa, mặt khác, cộng hòa thành thị có địa vị và tính chất như một thần thuộc của lãnh chúa; do đó nó là cộng hòa phong kiến. Sang giai đoạn nhà nước trung ương tập quyền, thì nạn phân quyền cát cứ được khắc phục, quyền lực nhà nước đã tập trung vào cơ quan nhà nước ở trung ương, đứng đầu là vua [có quyền quyết định mọi công việc đối nội, đối ngoại, bổ nhiệm hoặc cách chức, ban bố hoặc hủy bỏ các đạo luật, trừng phạt, ân xá…]

v Về bản chất và chức năng nhà nước:

Cũng như thời kì chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến phương Đông vẫn có một chức năng đặc biệt, quan trọng là tổ chức công cuộc trị thủy và thủy lợi. Còn về bản chất của nhà nước phong kiến ở đâu cũng là một, tuy nhiên, ở phương Tây, tính chất giai cấp của nhà nước thể hiện rõ nét hơn ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp sâu sắc hơn [lãnh chúa – nông nô], cuộc sống của nông dân, tá điền ở phương Đông] so với nông nô có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn.

KẾT LUẬN

Như vậy, nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phương Tây tuy có nhiều điểm khác nhau và những đặc trưng riêng, nhưng đều là những nhà nước phong kiến – kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử, nó củng cố bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến thống trị, góp phần quản lý đời sống xã hội. Nó là kiểu nhà nước điển hình cần được nghiên cứu, tìm hiểu, có những nhìn nhận, đánh giá chính xác và đầy đủ, sâu sắc hơn.

Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông

Các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời vào khoảng thế kỉ IV-III TCN, tồn tạ nhiều tàn dư của xã hội nguyên thủy trước đó, với trình độ sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ như đá, đồng… Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông thì đều thấy có chung một điểm đó là các quốc gia này đều hình thành bên các lưu vực sông lớn, ví dụ như:

– Ai Cập hình thành bên lưu vực sông Nin;

– Ấn Độ hình thành bên lưu vực sông Hằng, sông Ấn;

– Trung Quốc hình thành bên lưu vực sông Hoàng Hà, sông Trường Giang

Chính vì sự thuận lợi này mà hầu hết các quốc gia cổ đại phương Đồng đều tập trung phát triển nông nghiệp, chăn nuôi.

Về quá trình hình thành nhà nước được bắt đầu từ quá trình liên kết thị tộc, liên minh bộ lạc xuất phát từ nhu cầu của việc trị thủy, tuy nhiên vẫn bảo lưu dai dẳng những tàn dư của xã hội nguyên thủy. Do vậy mà các quốc gia cổ đại Phương Đông là quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều được tập trung vào tay người đứng đầu đất nước là vui, là người sở hữu quyền lực tối cao, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và chỉ huy quân đội.

Xã hội của các quốc gia cổ đại Phương Đông được chia thành 3 tầng lớp chính đó là:

– Tầng lớp quý tộc, gồm có quý tộc tăng lữ và quý tộc quan lại

– Tầng lớp nông dân công xã chiếm trên 90% dân cư trong xã hội, đây được xác định là lực lượng sản xuất chính;

– Tầng lớp nô lệ, phục vụ trong các cung điện và quan lại giàu có, là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội.

Trong quá trình phát triển kinh tế thì các quốc gia cổ đại phương Đông tập trung phát triển chính là nông nghiệp, như thủ công nghiệp, chăn nuôi theo hình thức tự cung tự cấp. Việc này cũng nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa, lưu vực các dong sông lớn đem lại phù sa màu mỡ.

Vài ý kiến về sự ra đời của CÁC NHÀ NƯỚC Ở PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY

Posted on 28 Tháng Chín, 2009 by Civillawinfor

THS. BÙI XUÂN PHÁIKhoa Pháp luật Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội

Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự xuất hiện của nhà nước. Các công trình đó ít nhiều đã chỉ ra những nội dung khoa học cho biết về cách thức, thời gian, điều kiện cho sự ra đời của các nhà nước như công trình nghiên cứu có tính chất kinh điển[1], các giáo trình lịch sử hay lý luận nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo luật…

Nó cho thấy sự phức tạp của việc nghiên cứu quá trình ra đời của nhà nước. Sự phức tạp đó không chỉ ở chỗ các nguồn tư liệu rất phong phú, có rất nhiều quan điểm chưa phải là đã nhất trí với nhau mà còn ở chỗ biểu hiện của bản thân sự ra đời của nhà nước. Hiện nay, có một quan điểm có thể coi như được thừa nhận chung là nhà nước ra đời trên cơ sở của xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định với sự xuất hiện của chế độ tư hữu sau khi có sự phân công lao động xã hội và trong xã hội đã xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Tuy nhiên, cho đến nay, những thông tin có được từ các hoạt động như khảo cổ với những thư tịch cổ, các công cụ lao động, sinh hoạt… của con người thời kỳ cổ đại, từ các công trình nghiên cứu lịch sử đã cho chúng ta những cách nhìn toàn diện hơn về sự ra đời của các nhà nước cũng như pháp luật. Bài viết này là sự bày tỏ một số suy nghĩ của bản thân về sự xuất hiện của nhà nước, trong đó có sự so sánh và đưa ra cách luận giải về sự khác nhau trong sự xuất hiện của các nhà nước ở phương Đông và phương Tây và ý nghĩa của việc xác định sự khác nhau đó.

Trong bài viết này, xin được ngược dòng thời gian để trở về quá khứ, thông qua những kết quả của lịch sử để lại và hiện thực cuộc sống để lý giải về sự xuất hiện của nhà nước dưới các góc độ văn hóa, kinh tế, chính trị…

Ta bắt đầu từ sự xuất hiện của nhà nước ở Phương Đông. Dưới góc độ văn hóa, người phương Đông sống trong văn hóa duy tình. Nếu như nhà nước ra đời là kết quả của nhiều yếu tố trong đó có văn hóa, thì văn hóa lại là sự kết tinh của quá trình con người sáng tạo ra các giá trị làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Văn hóa duy tình ở phương Đông có thể thấy qua rất nhiều hiện tượng của cuộc sống hàng ngày ,chẳng hạn nếu phức tạp thì quan hệ trong cộng đồng làng xã ,như kết cấu gia đình bền vững “tam đai đồng đường, tứ đại đồng đường”, nhà thờ họ, còn đơn giản thì bát canh, bát nước chấm chung của cả gia đình, ấm nước trà uống chung cả xóm … Nếu nhìn ra một phạm vi rộng hơn ra nhiều nước ở phương Đông, ta nhìn thấy “văn hóa ăn bằng đũa”. Đó vừa là yếu tố văn hóa, là tập quán, là phong tục hình thành dần do lối sống, vừa là biểu hiện của phương thức làm kinh tế, của quan hệ cộng đồng trong những điều kiện tự nhiên gắn liền với con người trong các cộng đồng dân cư. Đã có nhiều ý kiến về sự ảnh hưởng của yếu tố địa lý đến văn hóa làm hình thành nên phong tục tập quán nhưng những yếu tố tự nhiên này đã ảnh hưởng như thế nào đến sự ra đời của nhà nước ở phương Đông thì cần làm rõ hơn. Có thể nói các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị có quan hệ qua lại với nhau rất mật thiết. Từ yếu tố này, có thể nhìn thấy yếu tố kia ở những khía cạnh nhất định. Chẳng hạn như “văn hóa ăn bằng đũa” của nhiều dân tộc phương Đông cho ta thấy khía cạnh kinh tế. Đó là các dân tộc này thiên về các loại thực phẩm là sản phẩm của nền kinh tế trồng trọt. Đó là biểu hiện của điều kiện tự nhiên ở phương Đông chủ yếu gắn với văn minh nông nghiệp. Điều đó làm cho con người lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên rất nhiều và muốn tồn tại và phát triển, con người phải biết liên kết với nhau để tạo nên sức mạnh của cộng đồng để khắc phục sự khó khăn của điều kiện tự nhiên đó để có thể tồn tại và phát triển.

Do sử dụng các sản phẩm chủ yếu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp trồng trọt nên con người thuần tính hơn. Điều này đã được khẳng định về mặt sinh học ở chỗ những sinh vật nào ăn thức ăn từ thực vật, loài vật đó sẽ “hiền lành” hơn” thích sống theo bầy đàn, ít có sự cạnh tranh hơn so với các loài mà thức ăn của chúng lấy từ động vật vì loài này phải săn mồi nên thường phải rèn luyện kỹ năng săn mồi nên chúng cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cách sống, đến tổ chức cuộc sống và quan hệ xã hội. Có thể vì sử dụng các sản phẩm từ nông nghiệp trồng trọt nên con người có thể không có nhiều sức mạnh về mặt thể chất nên cũng ít có xu hướng xung đột lẫn nhau. Những xu hướng mở rộng các quan hệ ra bên ngoài cũng ít được thực hiên do nhu cầu bị bó hẹp. Mặt khác, trong điều kiện địa lý phức tạp của phương Đông, việc đi lại cũng khó khăn hơn nên việc giao tiếp với bên ngoài cũng trở nên bị hạn chế. Khi con người sống trong điều kiện quần cư đó, sự liên kết trở nên bền vững hơn. Chính vì sức mạnh về thể chất hạn chế mà con người cần phải liên kết để chinh phục thiên nhiên, chống lại thú dữ, chống lại sự tấn công của các thế lực từ bên ngoài. Chưa nói tới yếu tố giai cấp, sự quần cư của các cư dân là một yếu tố có thể coi là tiên quyết cho sự hình thành nhà nước ở phương Đông.

Bên cạnh đó, ta còn thấy tiếp cận yếu tố văn hóa thì cần quan tâm đến những công trình vĩ đại mà con người đã tạo ra. Các công trình này thậm chí còn được coi là kỳ quan của thế giới trong thời kỳ cổ đại còn được con người biết đến lại tập trung hầu như ở phương Đông. Đây là kết quả lao động của người phương Đông với sức mạnh chủ yếu của cơ bắp và sự khôn ngoan lại khẳng định sức mạnh của họ. Có thể nhìn thấy nhiều khía cạnh của vấn đề rất gần gũi với sự ra đời của nhà nước:

Thứ nhất, đó phải là biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng lớn trong quá trình xây dựng các công trình quy mô như vậy và rất cần một sự quản lý và phối hợp hoạt động chặt chẽ từ một tổ chức có uy tín và sức mạnh;

Thứ hai, có nhiều công trình mang yếu tố tâm linh, chứng tỏ mối quan hệ bền chặt của con người vào đấng tối cao mà người đại diện cho quyền lực tối cao ấy là những người đứng đầu cộng đồng do uy tín tự nhiên của họ [các Kim tự tháp ở Ai cập, đền Ăng co ở Campuchia, đền Tamahan ở Ấn độ…]. Điều này cho ta biết về mối liên hệ của các yếu tố thiên nhiên khắc nghiệt mà con người chưa khám phá và chinh phục được, trong đó mong muốn chinh phục đã thúc đẩy con người cố gắng thực hiện những công việc mà cho đến ngày nay người ta vẫn còn chưa lý giải nổi nó đã được thực hiện như thế nào;

Thứ ba, các công trình này có ý nghĩa góp phần tổ chức và bảo vệ cuộc sống, sản xuất trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên và nguy cơ bị tấn công của các thế lực bên ngoài [Vạn lý trường thành, các các con sông đào ở Trung quốc, ngọn Hải đăng ở Ai cập];

Thứ tư, các công trình này thường gắn với những khu vưc địa lý đặc biệt, nhất là những dòng sông hay ngọn núi [hay dãy núi lớn] liên quan rất nhiều đến hoạt động sản xuất hay sinh hoạt tín ngưỡng của một cộng đồng. Điều nay cho thấy một thực tế là địa hình cắt xẻ, phức tạp là một hạn chế cho sự đi lại giao lưu giữa các khu vực về cả kinh tế, văn hóa. Nó dẫn đến một kết quả là sự cạnh tranh giữa các dân tộc hay cộng đồng người không nhiều, sự học hỏi nhau gần như không có nên sự phát triển trở nên chậm chạp hơn rất nhiều so với phương Tây nên có những phát minh khoa học từ rất sớm nhưng không được phổ biến rộng rãi.

Thứ năm, là các công trình này được thực hiện bởi sự tham gia của rất nhiều nô lệ của nhà nước. Nô lệ ít tham gia vào các quá trình sản xuất ra của cải vật chất và không phải là đối tượng bóc lột chủ yếu như ở phương Tây.

Nói chung, có thể rút ra một số nhận xét về sự xuất hiện của các nhà nước ở phương Đông cổ đại như sau:

Trước hết, có thể thấy, các nhà nước ở phương Đông ra đời sớm hơn khá nhiều so với các nhà nước ở phương Tây. Các nhà nước phương Đông có sự ra đời sớm có thể được lý giải là do yêu cầu của việc tổ chức quá trình sản xuất, bảo vệ sản xuất, bảo vệ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.

Thứ hai, thời điểm của sự ra đời một tổ chức nhà nước khó xác định chính xác vì tính chất quá độ của xã hội cộng sản nguyên thủy lên xã hội có nhà nước là rất lâu dài. Nói cách khác thì các nhà nước có quá trình “thai nghén và trở dạ rất lâu”. Bằng chứng là sự tồn tại của các công xã nông thôn kéo dài rất lâu mà Mác đã có một khẳng định về phương thức sản xuất Á đông đã ảnh hưởng tới tổ chức xã hội và nhà nước. Điều này được lý giải bởi một căn cứ như đã nêu ở trên là do tính cạnh tranh không cao, con người ít có xung đột, mâu thuẫn ít xảy ra hơn nên ít có cách mạng xã hội hơn.

Thứ ba, nhà nước phương Đông cổ đại phát triển chậm chạp hơn. Điều này được lý giải ở việc tính chất duy tình trong các quan hệ xã hội làm cho con người tuy có gắn bó với nhau bền chặt hơn nhưng sẽ làm cho người ta trở nên bảo thủ ít chịu thay đổi vì thích sống trong hòa bình. Điều này được chứng minh bởi quan niệm của người phương Đông trong quan hệ giữa con người với trời, đất [ Thiên- Địa- Nhân]. Người ta chỉ chịu làm cách mạng khi mà không còn cách nào khác sau khi đã cam chịu. Cũng vì lý do này mà quan hệ giai cấp trong xã hội phương Đông cũng trở nên ít gay gắt hơn rất nhiều so với phương Tây mà kết quả của nó là nhà nước phương Đông ra đời gắn liền với chế độ nô lệ gia trưởng. Hơn thế nữa, do quan hệ gắn bó, gần gũi với nhau con người phương Đông hay vì sĩ diện nên hay tự che giấu hoặc bao che cho nhau những khuyết tật của bản thân làm cho họ trở nên thủ cựu, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội.

Thứ tư, càng gần với phương Tây và phương Bắc, các nhà nước càng có xu thế ra đời sớm hơn. Điều này được lý giải ở khía cạnh yêu cầu của việc tổ chức chống chiến tranh của các cộng đồng người. Các dân tộc ở phía Tây và phía Bắc thường là các dân tộc du mục, giỏi cưỡi ngựa, săn bắn mà thức ăn của họ chủ yếu là từ chăn nuôi và săn bắn nên họ có sức mạnh và thường trở nên hiếu chiến và cũng thiện chiến hơn.Việc chống lại các thế lực ngoại xâm này đòi hỏi các dân tộc này phải liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Việc tổ chức chiến đấu đòi hỏi những người có bản lĩnh, kinh nghiệm và có uy tín cao. Điều này mang lại một kết quả là sự phục tùng của xã hội đối với họ gần như là lẽ tự nhiên vì sự phục tùng đó vừa mang lại sự gắn kết trong cộng đồng để tạo nên sức mạnh, vừa nâng cao tính trách nhiệm của những người chỉ huy, quyền lực của người chỉ huy dễ được thần thánh hóa. Nó được coi như là một nguyên nhân dẫn đến sự “ngại làm cách mạng” của người phương Đông.

Thứ năm, tổng kết về quá trình xâm lược các quốc gia phong kiến ở phương Đông của các thế lực thực dân phương Tây, người ta thấy chỉ có hai nhà nước phong kiến Nhật bản và Thái lan tránh được sự xâm lược và ách cai trị của người phương Tây. Đây là hai nhà nước phong kiến đã tự làm cuộc cách mạng xã hội, mở cửa và tiếp nhận văn minh phương Tây, không thi hành chính sách bế quan tỏa cảng như các nhà nước phong kiến còn lại. Điều đó cho thấy việc hạn chế giao lưu của các dân tộc phương Đông là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chậm phát triển của khu vực này ngay từ thời kỳ cổ đại gắn với những điều kiện tự nhiên;

Thứ sáu, sự chậm phát triển của các nhà nước ở phương Đông còn được lý giải qua tinh thần các giáo lý tôn giáo ở phương Đông mà điển hình là tư tưởng diệt dục, triệt tiêu các ham muốn, các nhu cầu của con người được thể hiện trong đạo Phật, làm cho con người tự thu mình lại, không thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Có quan điểm cho rằng nhu cầu của con người chính là động lực cho sự phát triển của xã hội loài người, giáo lý đạo Phật lại đi ngược lại với quan điểm này. Ta thấy một điều rất rõ ở các nhà sư- những người đi theo đạo Phật thường ăn chay, tính tình của họ cũng vì thế mà trở nên nhu mì, hiền lành hơn. Nó rất gần với thói quen trong ăn uống của người phương Đông là ăn lương thực là chủ yếu và nhu cầu của họ cũng trở nên bị thu hẹp.

Việc đưa ra những kết luận trên đây có ý nghĩa góp phần nhìn nhận lại sự chậm phát triển và tính chất dân chủ hạn chế của các dân tộc phương Đông với những nguyên nhân và điều kiện tự nhiên liên quan và để có thể phần nào đó có thể khắc phục những truyền thống lạc hậu của người Phương Đông ,trong đó có Việt nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.

Đối với sự xuất hiện của các nhà nước ở phương Tây, cách tiếp cận cũng tương tự như trên. Theo cách tiếp cận này, ta thấy truyền thống của lối sống phương Tây là duy lý. Truyền thống văn hóa duy lý là kết quả được hình thành từ thói quen sinh hoạt, sản xuất và chiến đấu của người phương Tây. Nó gắn liền với điều kiện tự nhiên ở phương Tây rất khác so với phương Đông. Đó là khí hậu tương đối điều hòa, địa hình khá bằng phẳng, rất ít thiên tai, các dòng sông thì yên ả, êm đềm. Khi đó ta thường có cảm nghĩ về cuộc sống dễ chịu của người phương Tây. Nhưng hãy nhìn vào “văn hóa ăn bằng dao dĩa” của người phương Tây để phân biệt với “văn hóa ăn bằng đũa” của người phương Đông. Thông thường ta thấy con người ở phương Tây tự lập từ rất sớm. Họ có thể thoát ly khỏi gia đình ngay từ bắt đầu sang tuổi thành niên để sống cuộc sống tự lập. Chính vì thế mà quan hệ theo thiết chế gia đình “tam đại, tứ đại đồng đường” thường rất hiếm. Điều này có thể được giải thích là tính cách và khí chất mạnh của người phương Tây. Nhưng tính cách và khí chất mạnh này có nguồn gốc từ đâu? Ta lại xuất phát từ nguồn thức ăn mà họ sử dụng. Văn hóa ăn bằng dao dĩa của họ cho ta thấy thức ăn của họ chủ yếu là thực phẩm- sản phẩm của chăn nuôi và săn bắt. Điều kiện tự nhiên thuận lợi như đã nêu ở trên đã làm cho nền kinh tế tự nhiên của người phương Tây kéo dài hơn. Đó là nền kinh tế mà hoạt động của con người chủ yếu là khai thác các sản phẩm tự nhiên sẵn có mà ít phải chinh phục thiên nhiên, chưa phải lao động sản xuất. Trong khi đó, điều kiện địa hình bằng phẳng ít cách trở bởi sông núi đã tạo cho con người có khả năng mở rộng phạm vi hoạt động và giao lưu. Điều này kéo theo các hệ quả:

Thứ nhất, con người mang đến trao đổi cho nhau các yếu tố văn hóa, kinh tế, kinh nghiệm sản xuất… Biểu hiện cụ thể là các biểu hiện văn hóa của các dân tộc phương Tây là khá gần nhau [từ kiến trúc, chữ viết, âm nhạc đến ăn uống…] Điều đó làm cho phương Tây phát triển nhanh hơn do con người phát huy được các giá trị mà họ đã sáng tạo ra và thường xuyên được trao đổi;

Thứ hai, việc mở rộng phạm vi hoạt động cũng có nguy cơ dẫn đến sự xung đột là rất cao. Chiến tranh xảy ra cũng rất khắc nghiệt và cũng rất nhanh chóng do tính chất thiện chiến của các tộc người vốn rất giỏi săn bắn và chăn nuôi. Giữa người đi chinh phục với người bị chinh phục có quan hệ phân biệt rất rõ ràng, trong đó ai là kẻ mạnh người đó sẽ chiến thắng và thống trị, người kia trở thành nô lệ. Nhiều khi cả một dân tộc bị nô lệ hóa như người Hilốt bị người Xpác xâm lược. Cũng vì lẽ đó mà việc áp đặt sự cai trị cần có một lực lượng đủ mạnh để đàn áp sự chống đối của người bị trị nên nhà nước hình thành sẽ rất nhanh chóng;

Thứ ba, sự xung đột trong xã hội sẽ giúp cho việc loại trừ nhanh chóng những gì không phù hợp, yếu đuối. Tính chất cách mạng còn xuất phát từ chỗ người bị trị khi bị đàn áp dã man , tàn bạo quá cũng sẽ đấu tranh mạnh mẽ hơn, từ đó dẫn đến chỗ giai cấp thống trị cũng cần có sự thay đổi chính sách cai trị cho phù hợp để duy trì trật tự xã hội nên nền dân chủ ở phương Tây sớm được hình thành hơn;

Thứ tư, sự giao lưu giữa các cộng đồng người do điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ góp phần cải tạo giống nòi do chế độ quần hôn nhanh chóng bị phá bỏ hơn. Trong hoàn cảnh như vậy, kẻ mạnh càng có điều kiện để chứng minh ưu thế của mình so với những người khác. Kết quả là nguồn gen để lại cho các thế hệ sau cũng có chất lượng hơn. Điều này được chứng tỏ ở tầm vóc và sức khỏe của người phương Tây là hơn hẳn so với người phương Đông mặc dù ngày nay đã có ít nhiều thay đổi.

Thứ năm, nhu cầu của người phương Tây cũng cao hơn so với người phương Đông. Điều này có được là do khí chất rất mạnh của người phương Tây. Họ vừa là những thế lực hay gây chiến tranh xâm lược nhưng họ cũng là những người có nhiều phát minh khoa học để đáp ứng nhu cầu của mình. Có thể nói đây là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của phương Tây. Các thế lực xâm lược phải là các thế lực có sức mạnh để có khả năng chinh phục các dân tộc khác. Điều này đã được lịch sử chứng minh một cách khá đầy đủ.

Với những phân tích trên đây, ta có thể đi đến một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, các nhà nước phương Tây ra đời muộn hơn so với các nhà nước ở phương Đông. Nguyên nhân của sự ra đời muộn này là do ở phương Tây, nền kinh tế tự nhiên kéo dài hơn, con người được hưởng các sản phẩm có sẵn nhiều hơn do sự ưu đãi của thiên nhiên. Sự ưu đãi này làm cho con người ít phải đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, mức độ cạnh tranh của con người với nhau ở phạm vi rộng vì lý do sinh tồn vì vậy cũng không quyết liệt như ở phương Đông;

Thứ hai, thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ chế độ cộng sản nguyên thủy lên xã hội có giai cấp nhanh hơn, thời điểm ra đời của nhà nước ở phương Tây có tính xác định hơn do qua trình thai nghén của nhà nước ngắn hơn như đã phân tích ở trên;

Thứ ba, tính chất của quan hệ giai cấp trong các nhà nước ở phương Tây là rất gay gắt mà biểu hiện cụ thể của nó là chế độ nô lệ ở phương Tây có tính chất điển hình qua sự thống trị của chủ nô đối với nô lệ, trong đó vai trò sản xuất của cải vật chất cho xã hội chủ yếu do người nô lệ thực hiện. Đó vừa là kết quả của điều kiện sống, vừa là nguyên nhân của sự phát triển về sau ở phương Tây. Điều này có sự khác biệt so với chế nộ nô lệ gia trưởng ở phương Đông với vai trò không lớn của nô lệ [chủ yếu là phục dịch trong các gia đình quyền quý và thực hiện công việc xây dựng các công trình công cộng]. Việc đấu tranh giai cấp vì vậy mà cũng trở nên quyết liệt hơn, các cuộc cách mạng xã hội diễn ra nhiều hơn mà kết quả của nó là những cải cách xã hội có tính chất tiến bộ đã sớm mang lại một nền dân chủ và nhanh chóng trở thành truyền thống của phương Tây;

Thứ tư, đã có một số nhà nước hình thành từ kết quả của các cuộc chiến tranh xâm lược mà kẻ đi xâm lược do có sức mạnh nên đã chiến thắng và thiết lập nên nhà nước để áp đặt sự thống trị với người bị thất bại. Đây cũng là một trong những phương thức giúp cho nhà nước ở phương Tây ra đời nhanh hơn. Đây cũng là một lý do giải thích cho sự hiếu chiến và cũng rất thiện chiến của người phương Tây và sau này, các nước thực dân cũng là các nước ở phương Tây. Trong khi đó các dân tộc phương Đông lại là những nạn nhân của các đế quốc, thực dân phương Tây. Trong chiến tranh thế giới, các nước phát xít cũng là các nước có truyền thống bá quyền xâm lược [ La mã và Giéc – manh]. Riêng nước Nhật phát xít là nước rất mạnh ở phương Đông là nhà nước đã mở cửa với bên ngoài, phát triển kinh tế do có sự giao lưu rộng rãi với bên ngoài hơn hẳn các dân tộc khác ở phương Đông.

Những nội dung được phân tích và so sánh ở trên đây có thể cho chúng ta một cách nhìn về thời đại hiên nay. Xu thế hội nhập và mở rộng các quan hệ với bên ngoài sẽ làm thay đổi rất nhiều lối sống truyền thống của người phương Đông, trong đó có Việt nam chúng ta. Cơ hội cho chúng ta trở nên nhiều hơn nhưng nó cũng là thách thức với điều kiện hiện tại của chúng ta, buộc chúng ta phải rèn luyện bản lĩnh để tăng khả năng cạnh tranh, tận dụng cơ hội. Việc Việt nam chính thức trở thành thành viên của WTO trong thời gian gần đây cũng chính là kết quả nhận thức về xu thế hội nhập và mở rộng các quan hệ ra bên ngoài. Việt nam đã từng mất một cơ hội phát triển, đồng thời phải chịu ách đô hộ của thực dân phương Tây khi các vua nhà Nguyễn không chịu nghe lời khuyến nghị của Nguyễn Trường Tộ trong việc mở rộng giao lưu với phương Tây. Khó khăn thách thức với Việt nam khi vào WTO chỉ nên coi là cơ hội cho Việt nam vươn lên để khẳng định mình vì chưa có một Quốc gia nào lại xin ra khỏi tổ chức này do lợi ích mà nó mang lại. Mặt khác, việc gia nhập WTO sẽ giúp cho ta “nhăt sạn”, loại trừ những yếu tố tiêu cực trong cả hoạt động của bộ máy nhà nước lẫn các hoạt động của xã hội. Hy vọng vào sự phát triển của đất nước trong tương lai gắn liền với sự mở rộng và giao lưu với thế giới.

Chú thích:

[1] Mác-Ănghen, Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật, HN.1984, từ trang 250 đến 261.

SOURCE: Chưa cập nhật [Cám ơn tác giả đã chia sẻ bài viết]

Share this:

  • Click to print [Opens in new window]
  • Click to email this to a friend [Opens in new window]
  • Click to share on Twitter [Opens in new window]
  • Click to share on Facebook [Opens in new window]
  • Click to share on Tumblr [Opens in new window]
  • Click to share on LinkedIn [Opens in new window]
  • Click to share on Pinterest [Opens in new window]
  • Click to share on WhatsApp [Opens in new window]
  • Click to share on Skype [Opens in new window]
  • More
  • Click to share on Reddit [Opens in new window]

Like this:

Like Loading...

Related

Filed under: Xã hội, nhà nước và pháp luật Việt Nam |

52 Responses

  1. Sol, on 19 Tháng Sáu, 2021 at 8:38 sáng said:

    Thầy ơi, em có một câu hỏi như thế này ạ “Bạn hãy cho biết quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam có gì khác biệt so với quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở các nước phương Tây và phương Đông khác? “. Mong thầy trả lời giúp em với ạ, hoặc định hướng hướng đi giúp em ạ

    Trả lời
  2. Minh Đức, on 25 Tháng Mười, 2017 at 8:19 chiều said:

    Thầy ơi thây giup e tra loi cau hoi nay dc k ngắn và suc tich nha
    Cmr nhu cầu sản xuất nông nghiệp co anh hửởng đến cac cu dan cổ đại phuong Cong

    Trả lời
  3. Nguyễn Hà, on 7 Tháng Tư, 2016 at 9:44 chiều said:

    cho e hoi dac diem ra doi cua cac nha nuoc phuong dong co dai?so sanh voi con duong hinh thanh cac nha nnuoc phuong tay co dai? la j a

    Trả lời
  4. Huy Phúc, on 17 Tháng Chín, 2014 at 11:44 chiều said:

    ———–“Trước hết, có thể thấy, các nhà nước ở phương Đông ra đời sớm hơn khá nhiều so với các nhà nước ở phương Tây.”
    ———–“Thứ tư, càng gần với phương Tây và phương Bắc, các nhà nước càng có xu thế ra đời sớm hơn.”
    ———–Thứ ba, nhà nước phương Đông cổ đại phát triển chậm chạp hơn.

    Trả lời
  5. Nguyễn Quỳnh Anh, on 10 Tháng Tám, 2014 at 7:53 chiều said:

    Dạ thưa thầy, em có thắc mắc về việc sự hình thành xã hội phong kiến ở phương Đong và phương Tây bởi trong sách giáo khoa sử bảy không nói rõ. Thầy có thể bớt chút thời gian để giảng cho em có được ko ạ?

    Trả lời
  6. quynh anh, on 27 Tháng Mười Một, 2012 at 9:33 chiều said:

    Thưa thầy. theo thầy thì pháp luật chủ nô ỏ nhà nước phương Tây có tiến bộ hơn so với pháp luật chủ nô ở nhà nước phương Đông khong ah?

    Trả lời
  7. Shadystone, on 20 Tháng Chín, 2012 at 10:47 chiều said:

    chào thầy!em mới bước vào môn học nên đang tìm hiểu về vấn đề này em có chút thắc mắc mong thầy có thể giúp em hiểu hơn :
    Nguồn gốc ra đời của nhà nước gắn liền với sự hình thành và phát triển của lịch sử loài người. Nhà nước ra đời từ tiền đề xã hội: xã hội có sự phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp lên tới đỉnh điểm không thể điều hòa được nữa và tiền đề kinh tế: xuất hiện chế độ tư hữu trong xã hôi ở phương tây ; do yêu cầu chống giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên ở phương đông! sự ra đời của nhà nước diễn ra trong khoảng thời gian dài cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người, bộ óc con người dần càng phát triển và hoàn thiện hơn trong quá trình nhận thức và chinh phục tự nhiên!con người trước những yêu cầu của xã hội[tiền đề hình thành nhà nước]mà nhà nước ra đời!vậy sự phát triển và hoàn thiện của bộ óc con người có thể coi là 1 điều kiện dẫn tới sự ra đời của nhà nước?

    Trả lời
  8. Ừ Tớ Ngốc, on 17 Tháng Chín, 2012 at 3:29 chiều said:

    Em cảm ơn thầy. Bài này thầy viết có thể là chưa đầy đủ với ai đó nhưng với K37 chúng em thì đó là món ăn quá tròn vị rồi. Đây lại là bài tập thầy giao cho chúng em. Giờ em không biết phải biến vị nó như thế nào để trở thành món có vị của em trên cơ sở vị của thầy, thầy ạ.

    Trả lời
  9. ngọc Hiếu, on 21 Tháng Hai, 2012 at 12:12 chiều said:

    chào thầy.Thầy có thể cho em biết sự khác nhau giữa các kiểu pháp luật và qua đó thầy có thể chứng minh giùm em là kiểu pháp luật sau bao giờ cũng tiến bộ hơn kiểu pháp luật trước được ko thầy

    Trả lời
  10. dinh thu, on 5 Tháng Một, 2012 at 8:17 chiều said:

    hay nhung khong ro rang kho hieu
    phan tich qua sau xa

    Trả lời
  11. 122131, on 23 Tháng Mười Một, 2011 at 9:02 chiều said:

    thầy ơi cho em hỏi: Yếu tố trị thủy và chống giặc ngoại xâm không phải là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các nhà nước phương Đông, có nghĩa là sao vậy hả thầy?

    Trả lời
  12. nguyen trai, on 23 Tháng Mười, 2011 at 10:46 sáng said:

    thua thay cho em hoi tai sao su ra doi cua nha nuoc lai gan lien voi hoat dong san xuat vat chat

    Trả lời
  13. Hiểu Dương, on 19 Tháng Mười, 2011 at 12:51 chiều said:

    làm ơn cho e hỏi cau này nhe:các dấu hiệu đặc trưng của pháp luật để chứng minh pháp luật là 1 hiên tượng vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội

    Trả lời
  14. luathoc, on 9 Tháng Mười, 2011 at 9:15 sáng said:

    vì sao sự ra đời của nhà nước lại làm thay đổi xã hội ?

    Trả lời
  15. lux, on 7 Tháng Mười, 2011 at 12:42 chiều said:

    thoi gian ra doi nha nuoc o phuong dong va phuong tay the nao a thay.Em chi muon can bai tra loi ngan gon thoi a thay.
    Em xin cam on thay nhieu!

    Trả lời
  16. ta thi bich hanh, on 2 Tháng Mười, 2011 at 9:19 sáng said:

    thay oi cho e hoi nghuyen nhan ra doi cua nha nuoc theo quan diem cua chu nghia mav-lenin la gi a?Em cam on thay!

    Trả lời
  17. toainguyen, on 27 Tháng Tư, 2011 at 8:40 chiều said:

    bài viết của thầy hay,. nhưng hình như nó không thể hiện một cách tập trung, rỏ nét và sâu săc vào vấn đề chính là sự ra đời của nhà nước đông – tây

    Trả lời
  18. tang, on 2 Tháng Ba, 2011 at 12:11 chiều said:

    thua thay,nha nuoc phong kien phuong dong trung dai to chuc va hoat dong theo nhung nguyen tac nao ah????

    Trả lời
  19. Loan, on 16 Tháng Hai, 2011 at 4:45 chiều said:

    Su giong va khac nhau ve co so hinh thanh van minh phuong dong va van minh phuong tay.

    Trả lời
    • NguyenHongPhucDiem2003, on 20 Tháng Mười, 2014 at 6:56 sáng said:

      hay nhan xet ve vi tri cua moi giai cap trong xa hoi phuong Tay

      Trả lời
  20. cuong, on 8 Tháng Một, 2011 at 8:38 sáng said:

    thưa thầy,cho em hỏi: nhà nước ra đời cùng với sự ra đời của xã hội loài người. Nhận định này có đúng không ạ? Tại sao?

    Trả lời
  21. , on 6 Tháng Mười Hai, 2010 at 10:03 sáng said:

    thay oi cho em hoi.no le o xa hoi phong kien phuong dong va phuong tay co gi giong va khac nhau a?????

    Trả lời
  22. Hoa, on 29 Tháng Mười Một, 2010 at 11:31 chiều said:

    Thầy cớ thể cho em biết là tại sao ở các nước phương Tây cổ đại [Hy Lạp – La Mã cổ đại], , nghiên cứu về chính thể chính trị lại là một xu hướng lặp đi lặp lại không ạ. Điều này khác với phương Đông [chủ yếu là Trung Quốc cổ đại], tapaj trung nghiên cứu về người cầm quyền

    Trả lời
  23. phuong, on 23 Tháng Mười Một, 2010 at 7:51 chiều said:

    Thua thay cho em hoi 1 thac mac nho ve lich su nha nuoc va phap luat the gioi a! luat la ma co dai duoc xem la luat phat trien nhat thoi co dai`Vay dieu gi de chung minh duoc rang no la phat trien nhat ma khong phai la cac bo luat khac a.

    Trả lời
  24. yen, on 22 Tháng Mười Một, 2010 at 10:56 sáng said:

    so sanh to chuc bo may nha nuoc cua cac quoc gia co dai phuong dong voi cac quoc gia co dai phuong tay?nha nuoc nao tien bo hon vi sao

    Trả lời
  25. Thanh91qth, on 18 Tháng Mười, 2010 at 8:44 chiều said:

    Thầy ơi! Cho em hỏi là đặc điểm chung về chính sách ngoại giao của nhà nước phong kiến nói chung là gì vậy ạ?!
    và của nhà nước tư sản Anh nữa thầy a!

    Trả lời
  26. Thanh91qth, on 18 Tháng Mười, 2010 at 8:41 chiều said:

    Thầy ơi! Cho em hỏi là đặc điểm chung về chính sách ngoại giao của nhà nước phong kiến nói là gì vậy ạ?!
    và của nhà nước tư sản Anh nữa thầy a!

    Trả lời
  27. TRANTOAN, on 11 Tháng Mười, 2010 at 10:55 sáng said:

    Học trò thầy Phái:

    1. Quan điểm cá nhân! Lịch sử hiện tại ta có là những ghi chép lại những gì đã diễn ra trong quá khứ và hiện tại, đôi lúc có pha một chút chủ quan của người chép sử.
    Điều tất yếu này làm cho Lịch sử hiện tại không hoàn toàn là sự thật đã diễn ra. Rất nhiều chứ cứ để con người có thể kiểm chứng lịch sử hiện tại và phần lớn sự thật lịch sử đều được tìm ra, vấn đề còn lại là thời gian.
    Vai trò của lịch sử vô cùng to lớn đối với xã hội loài người cả trong quá khứ hiện tại và tương lại!
    Chỉ nói riêng với tương lai: Lịch sử là ko thể chối cãi và sự phán xét của lịch sử là một điều thiêng liêng và đúng đắn nhất, hơn cả sự lên án của xã hội hiện tại.

    2. Thầy có quan điểm như thế nào về Lịch sử, Sự thật và Chân lý.

    Trả lời
  28. sùng a khứ, on 11 Tháng Mười, 2010 at 9:26 sáng said:

    thầy ơi!cho em hỏi là trong nhà nước chủ nô và phong kiến lời nói của vua có phải là luật không?

    Trả lời
  29. nguyen thuy linh, on 7 Tháng Mười, 2010 at 11:16 sáng said:

    Thầy ơi!em phải tìm các quan điểm trước đây về “xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh” để so sánh với tư tưởng HỒ CHÍ MINH về vấn đề này.

    Trả lời
  30. nguyen thuy linh, on 7 Tháng Mười, 2010 at 11:11 sáng said:

    thầy ơi!cho em hỏi thầy mấy vấn đề.Em tìm trên mạng nhưng không thấy,em đã sử dụng hết mọi thủ thuật tìm kiếm trên google mà em biết nhưng không tìm được.Thầy giúp e với.Em muốn tìm hiểu về “quan điểm trước đây về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh là như thế nào?”.Rõ hơn là quan điểm của phương đông và phương tây hoặc theo khu vực địa lí hoặc theo tôn giáo [nho giáo,phật giáo…..các tôn giáo]về vấn đề này?

    Trả lời
  31. nguyen thi ngoc khanh, on 6 Tháng Mười, 2010 at 12:12 sáng said:

    thay oi em co the hoi ve cac hinh thuc phap luat khong a?Thay oi tai sao viec su dung tap quan phap co the gop phan khac phuc tinh trang thieu phap luat va khac phuc cac lo hong cua phap luat thanh van?Em cam on thay!

    Trả lời
  32. sùng a khứ, on 4 Tháng Mười, 2010 at 4:59 chiều said:

    thầy ơi!em còn câu hỏi này nữa?
    chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm song song cùng tồn tại hay là chủ nghĩa duy vật là sự kế thừa chủ nghĩa duy tâm?

    Trả lời
  33. khu, on 4 Tháng Mười, 2010 at 4:52 chiều said:

    thầy ơi!cho em hỏi ạ?
    có bao nhiêu trường phái triết học trong lịch sử?dó là những trường phái nào?các căn cứ để phân biệt chúng?

    Trả lời
  34. nguyen thi ngoc khanh, on 1 Tháng Mười, 2010 at 7:50 chiều said:

    thay oi su ra doi cua nha nuoc phuong dong co phu thuoc vao su tri thuy va chong giac ngoai xam khong ah

    Trả lời
    • thày Phái, on 4 Tháng Mười, 2010 at 10:17 sáng said:

      có dấy em ạ! Nếu không có nhu cầu này thì nhà nước phương Đông không xuất hiện sớm như thế đâu

      Trả lời
  35. nguyen thi ngoc khanh, on 1 Tháng Mười, 2010 at 7:43 chiều said:

    thay oi cho em hoi su ra doi cua nha nuoc phuong iac ng ga chongdong co lien quan den viec tri thuy va chong giac ngoai xam khong a

    Trả lời
  36. tang, on 1 Tháng Mười, 2010 at 2:10 chiều said:

    y cua to la neu nhu con nguoi kug xuat hien o hai khu vuc dia ly,mot noi toc do phat trien cua xa hoj nhanh hon thi k co ly gj ma o phuuong dong laj xuat hien nha nuoc truoc ca.haj nguoi kung chay va duong nhien nguoi chay nhanh hon se den djk truoc chu???danh rang o phuong tay co dk tu nhien thuan loi nhung o phuong dong dk cung k the noi la kho khan hon dc.bang chung la nen van mjnh lua nuoc ton tai toi ngay nay do.

    Trả lời
  37. Nhoquay, on 30 Tháng Chín, 2010 at 10:52 sáng said:

    Tai sao XH co dai phuong Tay laj phat trien hon XH co dai phuong Dong trong khi XH PD duoc hinh thanh som hon PT

    Trả lời
  38. Linh, on 30 Tháng Chín, 2010 at 10:44 sáng said:

    thứ nhất tớ nghĩ câu hỏi của bạn nên sửa là sự xuất hiện nhà nước ở phương đông và phương tây chứ ko fai là sự xuất hiện loài người ở phương đông và phương tây.
    thứ hai, theo tớ Angghen cho rằng có 3 kiểu nhà nước điển hình là aten, roma và giecmanh, và những nhà nước này đều ở phương tây là do khi đó Mác và Angghen chưa nghiên cứu sâu đc về sự ra đời của nn ở phương đông, và chưa đưa ra đc những kết luận về điều đó, vậy nên 3 kiểu nn đó chỉ là 3 kiểu nn điển hình của xh phương tây đương thời.

    Trả lời
  39. tang, on 27 Tháng Chín, 2010 at 10:48 chiều said:

    e co mot vaj van de k hieu mong thay giai dap!su xuat hien con nguoi o phuong dong va phuong tay co cung thoi diem k a?neu su xuat hien loai nguoi o phuong dong va phuong tay la cung thoi diem thi theo e nha nuoc o phuong tay se ra doi som hon so voi phuong tay chu a?vi theo nhu thay noi thi voi dac diem con nguoi va xa hoi phuong tay rat re xay ra mau thuan,mau thuan xa hoi cung gay gat va kho dieu hoa hon.con o phuong dong su lien ket giua cong dong la kha ben vung,nhung mau thuan it gay gat hon,va theo dinh nghia nha nuoc thi:nha nuoc la san pham cua nhung mau thuan xa hoi k the dieu hoa duoc.vay thi nha nuoc phuong dong se ra doi muon hon chu a?va o giao trinh li luan nha nuoc va phap luat chi co 3 kieu nha nuoc dien hinh la nha nuoc aten,nha nuoc rome,nha nuoc giecmanh,va nhung nha nuoc nay deu o phuong tay.mong thay giai thich giup em!

    Trả lời
    • thày Phái, on 4 Tháng Mười, 2010 at 10:15 sáng said:

      em hãy đọc kỹ việc lý giải của thày về sự ra đời muộn của các nhà nước ở phương Tây đi đã.

      Trả lời
  40. zim, on 28 Tháng Sáu, 2010 at 8:09 chiều said:

    darn it ! co ai giup tui kohng ?

    Trả lời
  41. zim, on 28 Tháng Sáu, 2010 at 8:08 chiều said:

    ec khi that mon phap luat ma hoi nham nhi wa giong nhu lich su vay !!! >”

    Bài Viết Liên Quan

    Chủ Đề